Top 12 # Trẻ Em Học Tiếng Anh Như Thế Nào Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Lienminhchienthan.com

Trẻ Em Học Tiếng Anh Như Thế Nào?

Không giống như người lớn, trẻ nhỏ tiếp thu ngôn ngữ một cách tự nhiên và tự tạo động lực để tiếp thu mà không cần có sự hỗ trợ của ý thức. Trẻ có khả năng bắt chước phát âm và tự mình đưa ra các quy tắc. Người ra thường cho rằng sẽ rất khó để dạy tiếng Anh cho trẻ em hơn là người lớn – những người học tiếng Anh ở độ tuổi muộn hơn thông qua sách giáo khoa và dựa trên yếu tố ngữ pháp.

Những lợi ích của việc bắt đầu học tiếng Anh từ nhỏ

Trẻ nhỏ vẫn đang vận dụng các chiến lược học ngôn ngữ bẩm sinh để giao tiếp hàng ngày ở nhà. Đây cũng là những chiến lược sẽ được sử dụng tốt khi trẻ bắt đầu tiếp xúc sớm với tiếng Anh.

Hầu hết thời gian trẻ học ngôn ngữ thông qua các trò chơi. Nhất là các trò chơi có người lớn tham gia. Đầu tiên, con sẽ nhìn vào các hoạt động và sau đó là hiểu qua ngôn ngữ mà người lớn đang dùng để giải thích về trò chơi đó.

Trẻ có xu hướng hoàn thiện các kỹ năng tiếng Anh khi xem các chương trình tiếng Anh hàng ngày. Thay vì phải học theo giáo trình ở trường, làm các bài tập mà giáo viên đưa ra, trong khi trẻ chưa sẵn sàng tập trung vào kiểu học như thế này, việc học bằng cách xem chương trình sẽ khiến trẻ ít bị căng thẳng hơn và không phải cố gắng đạt được các tiêu chuẩn đã đề ra như ở trường.

Trẻ nhỏ thường tiếp thu ngôn ngữ một cách tự nhiên thay vì có ý thức học nó, vì trẻ có nhiều khả năng phát âm, cảm nhận tốt về ngôn ngữ và văn hóa như người lớn. Khi những đứa trẻ đến tuổi dậy thì, khả năng tiếp thu ngôn ngữ của chúng giảm dần và chúng cảm thấy phải có ý thức học tiếng Anh thông qua các chương trình và dựa trên ngữ pháp thay vì học trong sự vô tư như trước. Độ tuổi dậy thì phụ thuộc vào sự phát triển của mỗi cá nhân, và sự tự ý thức học tiếng Anh phụ thuộc vào kỳ vọng của xã hội.

Các giai đoạn học tiếng Anh cho trẻ em

Khoảng thời gian im lặng

Khi học ngôn ngữ mẹ đẻ, sẽ có một khoảng thời gian trẻ im lặng, đó chính là khi chúng nhìn, nghe và giao tiếp qua nét mặt hoặc cử chỉ trước khi chúng bắt đầu nói. Khi trẻ học tiếng Anh, cũng sẽ có một khoảng thời gian im lặng tương tự và sự hiểu biết có thể diễn ra trước khi trẻ thực sự nói bất kỳ từ tiếng Anh nào.

Trong thời gian im lặng này, ba mẹ không nên ép buộc trẻ tham gia đối thoại. Thỉnh thoảng các cuộc nói chuyện của người lớn cũng cung cấp các cơ hội hữu ích cho trẻ tiếp thu ngôn ngữ. Trẻ sẽ vận dụng các chiến lược giao tiếp như cách mà chúng nghe được từ người lớn vào các cuộc đối thoại.

Bắt đầu giao tiếp

Sau một thời gian, tùy thuộc vào tần suất của việc học tiếng Anh, mỗi đứa trẻ, nhất là các bé gái, bắt đầu nói các từ đơn (cat, house) hoặc các cụm từ ngắn (what’s that?; It’s my book; I can’t; that’s a car; time to go home) trong các cuộc đối thoại.

Các bé đã ghi nhớ những từ này, bắt chước cách phát âm chính xác mà không nhận ra rằng trong số đó có nhiều hơn một từ. Điều này sẽ còn tiếp diễn khi trẻ tiếp thu thêm nhiều ngôn ngữ mới.

Xây dựng ngôn ngữ tiếng Anh

Trẻ xây dựng các cụm từ bằng cách sử dụng một từ đã được ghi nhớ trước đó và thêm vào những từ vựng khác hoặc một ngôn ngữ khác. Ví dụ: a dog, a brown dog and black dog, that’s my chair, time to play. Tùy thuộc vào tần suất tiếp xúc với tiếng Anh và chất lượng trải nghiệm, trẻ dần tạo ra một câu tiếng Anh hoàn chỉnh.

Sự hiểu biết

Sự hiểu biết luôn được chú trọng hơn việc giao tiếp và khả năng hiểu của trẻ không nên bị đánh giá thấp. Vì khi còn nhỏ, các con đã sử dụng sự hiểu biết từ các manh mối xung quanh để hiểu những gì người lớn đang nói với chúng. Tuy trẻ không thể hiểu hết mọi thứ khi nghe, nhưng các con có thể nắm ý chính nhờ vào một vài từ quan trọng và giải mã câu nói bằng cách sử dụng thêm các manh mối. Trong giai đoạn này, sự khuyến khích từ người lớn sẽ là đòn bẩy giúp trẻ vận dụng các kỹ năng hiểu biết của mình để giao tiếp bằng tiếng Anh.

Sự thất vọng

Sau sự mới lạ ban đầu của các buổi học tiếng Anh, một số trẻ trở nên thất vọng vì không thể bày tỏ suy nghĩ bằng tiếng Anh. Một số khác muốn giao tiếp nhanh bằng tiếng Anh như khi nói ngôn ngữ mẹ đẻ. Sự thất vọng của trẻ có thể khắc phục bằng cách thêm âm nhạc vào bài học hoặc tạo ra những cụm từ mang tính tích cực như: ‘tôi có thể đếm đến 12 bằng tiếng Anh” v.v…

Những lỗi sai

Chúng ta không nên nói với trẻ rằng chúng đã phạm sai lầm và điều chỉnh trẻ ngay lập tức. Vì sai lầm có thể là một phần của quá trình xây dựng các quy tắc ngữ pháp tiếng Anh. Trong quá trình học ngôn ngữ, nếu trẻ có cơ hội nghe người lớn giao tiếp tiếng Anh một cách chính xác, trẻ sẽ tự sửa lỗi của mình trong quá trình giao tiếp.

Sự khác biệt giới tính

Bộ não của bé trai phát triển khác với các bé giái và điều này ảnh hưởng đến cách tiếp thu và sử dụng ngôn ngữ của các bé trai. Đôi khi, trong các lớp học tổng hợp (có cả bé trai lẫn bé gái) các bé trai có thể bị lu mờ bởi các bé gái có khả năng sử dụng ngôn ngữ một cách tự nhiên. Để các bé trai học tốt và phát huy được tiềm năng, cần phải có một số phương pháp học ngôn ngữ khác với các bé gái và không nên so sánh thành tích với các bạn nữ.

Môi trường học ngôn ngữ

Trẻ nhỏ gặp khó khăn hơn trong việc tiếp thu tiếng Anh nếu chúng không được cung cấp môi trường phù hợp, kèm theo sự hỗ trợ của người lớn.

Trẻ nhỏ cần cảm thấy an tâm và biết lý do rõ ràng vì sao con phải sử dụng tiếng Anh.

Các hoạt động trong lớp cần được liên kết với sở thích hàng ngày của trẻ. Ví dụ như: chia sẻ một cuốn sách tranh bằng tiếng Anh, nói một vấn đề bằng tiếng Anh, v.v…

Các buổi học tiếng Anh rất vui và thú vị nếu tập trung vào các khái niệm mà trẻ đã hiểu bằng ngôn ngữ mẹ đẻ. Theo cách này, trẻ sẽ cảm thấy mình không phải học một khái niệm mới cũng như ngôn ngữ mới, mà chỉ học tiếng Anh để nói về những điều chúng đã biết.

Nếu có thể, các hoạt động nên được hỗ trợ bởi các đối tượng cụ thể, địa điểm cụ thể để giúp trẻ hiểu và tăng khả năng tiếp thu.

Đọc hiểu

Trẻ nhỏ thường muốn tìm hiểu làm thế nào để đọc bằng tiếng Anh. Và trước khi con có thể đọc tiếng Anh, trẻ nhỏ cần biết tên của 26 chữ cái và âm tiết. Vì tiếng Anh có 26 chữ cái nhưng có đến 44 âm tiết. Việc giới thiệu âm tiết nên được diễn ra khi trẻ đã có nhiều kinh nghiệm hơn trong việc sử dụng ngôn ngữ.

Việc bắt đầu đọc bằng tiếng Anh sẽ dễ dàng hơn nếu trẻ nhỏ đã biết ngôn ngữ mà chúng đang đọc. Nhiều trẻ tự học cách đọc tiếng Anh thông qua việc chia sẻ sách ảnh với người lớn hoặc học vần, vì trẻ nhỏ có khả năng ghi nhớ ngôn ngữ. Đọc thuộc lòng là một bước quan trọng trong việc học đọc vì nó mang lại cho trẻ cơ hội để tự mình giải mã những từ đơn giản. Một khi trẻ đã xây dựng được một ngân hàng các từ mà chúng có thể đọc, chúng cảm thấy tự tin và sẵn sàng để tiếp cận việc đọc có cấu trúc hơn.

Hỗ trợ từ phía phụ huynh

Trẻ cần cảm thấy rằng chúng đang tiến bộ. Vì thế sự khuyến khích liên tục cũng như khen ngợi về kết quả của trẻ là điều cần thiết. Ở vị trí phụ huynh, ba mẹ nên giúp con mình học mỗi ngày, nếu có thể thì hãy học tiếng Anh cùng trẻ để tạo động lực cho con, ngay cả khi tiếng Anh của ba mẹ chỉ ở mức cơ bản.

Bằng cách chia sẻ, ba mẹ không chỉ có thể mang ngôn ngữ và hoạt động của con mình vào cuộc sống gia đình mà còn có thể ảnh hưởng đến trẻ nhỏ về thái độ học ngoại ngữ và các nền văn hóa khác nhau. Hiện nay người ta thừa nhận rằng: hầu hết thái độ của trẻ được hình thành khi con ở độ tuổi từ 8 đến 9 tuổi.

Trẻ Em Học Ngôn Ngữ Như Thế Nào?

Phần 1: Trẻ em học ngôn ngữ như thế nào? (1)

Một số nhà nghiên cứu cho rằng trẻ em nghe được âm thanh ngôn ngữ từ trong bụng mẹ. Họ cho tiến hành một thí nghiệm để chứng minh điều này. Trước tiên, họ cho những người mẹ trong thai kỳ cuối (3 tháng cuối) chọn một trong ba câu chuyện của trẻ em và đọc nó cho em bé trong bụng nghe mỗi ngày hai lần, cho đến ngày lâm bồn. Ba ngày sau khi các em bé chào đời, họ cho các bé nghe ba câu chuyện được thu băng. Kết quả cho thấy các bé phản ứng rõ rệt với câu chuyện đã từng được nghe nhiều lần trong bụng mẹ.

… Sắp tới mình sẽ làm một nghiên cứu về việc trẻ em song ngữ ở Singapore đắc thụ năng lực ngữ dụng trong tiếng Anh như thế nào (đề tài đã được duyệt và cấp kinh phí). Đối tượng nghiên cứu của mình là các em bé từ 2 tuổi đến 5 tuổi, lứa tuổi mà sự phát triển ngôn ngữ diễn ra mạnh mẽ nhất trong cuộc đời một con người. Có lẽ các bạn không biết rằng, khoảng 90% khả năng ngôn ngữ của con người được đắc thụ trong giai đoạn trước khi chúng ta bước vào lớp một :). Mười phần trăm còn lại sẽ được hoàn thiện dần trong những năm đi học ở nhà trường.

Thật đáng kinh ngạc phải không? Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ trẻ em đều quan tâm đến câu hỏi, việc học ngôn ngữ diễn ra như thế nào trong những năm đầu đời, và bắt đầu từ khi nào. Theo các bạn thì là khi nào? Các bạn có tin nếu mình nói việc học ngôn ngữ diễn ra trước khi các em bé chào đời, nghĩa là từ trong bụng mẹ?

From Hana Nguyen Facebook missing

Điều này chứng tỏ ngay từ khi chỉ là một bào thai, các bé đã ‘bắt nhịp’ được với những âm tiết trong ngôn ngữ mẹ đẻ. Và điều này cũng chứng tỏ não của các bào thai được cấu tạo để xử lý các âm tiết của ngôn ngữ con người.

Quá trình phát triển ngữ âm diễn ra từ rất sớm. Đến khoảng tháng thứ mười, bé bắt đầu biết tạo ra các âm tiết trong tiếng mẹ đẻ. Ngữ điệu là cái mà bé có thể sử dụng đầu tiên để tạo nghĩa, ngay cả trước khi các bé có thể phát âm được một cách rõ ràng các âm tiết. Không biết mọi người đã xem đoạn youtube về hai em bé sinh đôi nói chuyện với nhau chưa?

Đoạn video này cho thấy hai bé đã biết sử dụng ngữ điệu thành thạo để giao tiếp, rất buồn cười và đáng yêu 🙂 (điều đặc biệt về hai bé này là các bé còn biết cách take turn rất giống người lớn khi hội thoại nữa :P). Một ví dụ khác mình hay lấy cho sinh viên xem là đoạn video này:

Em bé trong đoạn video này chưa phát âm sõi được một số từ nhưng đã có thể bắt chước ngữ điệu rất giống bố :).

Từ một tuổi đến 5 tuổi, trẻ em phát triển ngôn ngữ rất nhanh. Cột mốc đầu tiên là sau sinh nhật một tuổi các bé bắt đầu phát âm được một số từ (tuy nhiên trẻ em học ngôn ngữ với tốc độ khác nhau, có bé biết nói sớm hơn, có bé biết nói chậm hơn. Mẹ mình bảo mình biết nói từ 10 tháng, trong khi em trai mình thì ngoài 1 tuổi mới biết nói :P). Mới đầu việc học từ vựng diễn ra chậm, nhưng sau khi các bé tích lũy được khoảng 50 từ thì bắt đầu … tăng tốc :D. Khi bé được một tuổi rưỡi trở ra, mỗi ngày bé có thể học đến 5 từ mới (tuy nhiên, xin nói lại lần nữa là trẻ em học với tốc độ khác nhau nên không cần phải quá lo lắng nếu em bé của mình học chậm hơn các bạn khác). Và cho đến khi vào lớp 1 thì vốn từ vựng của bé đã có khoảng 10-14,000 từ (đây là nói về trẻ em đơn ngữ. Trẻ em song ngữ có thể có khối lượng từ vựng trong mỗi ngôn ngữ ít hơn so với trẻ em đơn ngữ vì không phải em nào cũng có cơ hội được sử dụng cả hai ngôn ngữ ở mọi tình huống giống nhau). Đến khi tốt nghiệp phổ thông thì vốn từ vựng đã rất phong phú, khoảng 50,000 từ.

Trẻ học từ vựng & ngữ pháp thế nào?

Về mặt hình thái học và ngữ pháp, làm thế nào để bé nắm vững được những quy luật hết sức phức tạp của ngôn ngữ? Việc học này diễn ra hoàn toàn tự nhiên, và tất nhiên có vai trò lớn của khả năng nhận thức. Hay nói cách khác, phát triển ngôn ngữ và phát triển nhận thức ở trẻ em gắn bó chặt chẽ và có tác động qua lại với nhau.

Nhà nghiên cứu Brown quan sát 3 trẻ em người Anh học tiếng mẹ đẻ và phát hiện ra các em học hình vị trong tiếng Anh theo một thứ tự nhất định. Điều thú vị là khi nghiên cứu này lặp lại ở trẻ em học tiếng Anh như ngôn ngữ hai thì cũng tìm được kết quả tương tự, mặc dù thứ tự này có một vài điểm khác với thứ tự của trẻ em bản ngữ tiếng Anh.

Ví dụ, các em đều đắc thụ dạng thức -ing của động từ trước khi đắc thụ dạng thức số nhiều của danh từ hoặc dạng thức quá khứ của động từ. Các nhà nghiên cứu lý giải rằng việc học ngôn ngữ ban đầu của trẻ em gắn với những sự kiện hàng ngày của các em, và hết sức cụ thể, không tách rời ngữ cảnh “ở đây và bây giờ” (now and here). Các em học được dạng thức -ing đầu tiên là bởi khi chơi với các em bố mẹ thường hay dùng dạng thức này để mô tả các hiện tượng đang diễn ra. Và các em chỉ học được thời quá khứ (một khái niệm đã tách khỏi ngữ cảnh “ở đây và bây giờ”) khi đã có khái niệm trừu tượng về thời gian.

Tương tự, nghiên cứu trong nhiều ngôn ngữ cho thấy trẻ em học câu hỏi what/ where/ who trước khi học được câu hỏi when & why, vì các em có khái niệm “thời gian” và “nhân quả” muộn hơn so với khái niệm “ai/ cái gì/ ở đâu” (gắn liền với ngữ cảnh cụ thể “ở đây và bây giờ”).

Hoặc khi yêu cầu các em nhỏ dưới 6 tuổi đưa ra một định nghĩa về một từ vựng, thường các em chỉ có thể miêu tả những tính chất cụ thể của từ đó, chứ không thể khái quát hóa và liên hệ nó với các từ vựng khác. Khả năng này chỉ có được khi nhận thức về thế giới của các em đã phát triển hơn.

Thí nghiệm WUG số nhiều

Trở lại câu hỏi làm thế nào trẻ em học được các quy luật hết sức phực tạp của ngôn ngữ? Ví dụ, làm thế nào các em học được khái niệm số ít/ số nhiều của danh từ trong tiếng Anh? Các em sẽ học từ “apples” như là 1 đơn vị từ vựng (coi như 1 từ) hay là các em biết

apples

được cấu tạo từ

apple + s

?

Kết quả: 90% trẻ em khảo sát đã điền được từ

wugs

. Điều này có nghĩa là gì? Có nghĩa là các em đã khám phá được quy luật hình thái học để cấu tạo danh từ số nhiều. Đối với các em

apples

không phải là 1 từ vựng riêng biệt mà là 1 hình thái khác của

apple

.

Việc khám phá này diễn ra hoàn toàn tự nhiên, không cần được ai dạy. Các nhà ngôn ngữ theo trường phái của Chomsky coi đây như bằng chứng cho thấy khả năng học ngôn ngữ là khả năng bẩm sinh của con người, mà chỉ có con người mới có được (những nỗ lực dạy ngôn ngữ con người trong đó có sử dụng cả ngôn ngữ ký hiệu cho loài tinh tinh hay loài vẹt đều thất bại). Và rằng khả năng học ngôn ngữ đã được lập trình sẵn trong não. Chương trình này chỉ cần tiếp xúc với đầu vào ngôn ngữ là có thể được kích hoạt.

Khả năng khám phá quy luật ngôn ngữ của trẻ em còn thể hiện ở những lỗi “khái quát hóa” rất dễ thương của các em. Ví dụ các em bé con bạn tôi ở bên này thường hay mở rộng dạng thức -ing của động từ trong tiếng Anh sang tiếng Việt, ví dụ bảo mẹ “Mommy, I’m tắm-ming”. Trẻ em người Anh thì có thể nói “I’m supermanning” (khái quát từ danh từ “superman”) hoặc dùng động từ quá khứ sai, ví dụ I seed a lion (thay vì I saw a lion). Những lỗi này cho thấy các em đang tham gia tích cực vào việc tìm ra các quy luật ngôn ngữ và thử nghiệm chúng :).

Ví dụ trong ngôn ngữ khác

Nếu mà nghĩ đến các ngôn ngữ có hệ thống ngữ pháp hết sức phức tạp thì mới thấy việc học ngôn ngữ của trẻ em diễn ra kỳ diệu như thế nào. Ví dụ trong tiếng Nga có cả thẩy là 6 cách của động từ, 3 giống và 2 số của danh từ. Mỗi khi sử dụng thì phải kết hợp sao cho phù hợp về giống, số, cách. Tiếng Pháp cũng có 3 giống và 2 số của danh từ, đòi hỏi khi sử dụng với tính từ phải phù hợp về giống và số. Hai ngôn ngữ này sử dụng rất khó, đòi hỏi phải đạt được mức độ kiểm soát chú ý cao mới sử dụng đúng như người lớn bản ngữ được. Vậy mà không cần ai dạy (các nghiên cứu cho thấy bố mẹ rất ít khi sửa lỗi ngữ pháp của con mà thường hay sửa lỗi ngữ nghĩa và ngữ dụng), trẻ em vẫn có thể nắm bắt một cách thuần thục. Tất nhiên, điều đó không có nghĩa là ở những năm đầu đời, các em đã đạt được độ hoàn hảo của ngôn ngữ người lớn. Nhưng có thể nói, trước khi các em đến trường thì đã có một số vốn rất cơ bản về ngôn ngữ mẹ đẻ rồi. Phần hoàn thiện các cấu trúc khó, các âm tiết khó, mở rộng từ vựng cũng như sắc thái ngữ nghĩa của từ vựng và trau giồi kỹ năng giao tiếp sẽ diễn ra trong giai đoạn tiếp theo.

[like-and-read]

Phần 2: Trẻ em học ngôn ngữ như thế nào? (2) (hay cha mẹ có nên cho con học tiếng Anh từ bé không?)

Thực ra lý do để mình viết note vừa rồi, và note này là vì bài báo trên Tuổi Trẻ online mà một số trung tâm ngoại ngữ đã trưng lên để lôi kéo phụ huynh gửi con đến học tiếng Anh với họ:

Như đã nói ở note trước, trẻ em có một khả năng học ngôn ngữ kỳ diệu, mà người lớn không thể so sánh được. Trường hợp của các em bé bị tước đoạt ngôn ngữ (bị bỏ rơi và được thú rừng nuôi nấng, hay bị lạm dụng và tách biệt khỏi đời sống con người) cho thấy khi được đưa trở lại với đời sống con người ở lứa tuổi thiếu niên, các em không có khả năng nắm bắt được ngôn ngữ mẹ đẻ ở mức độ thuần thục như các bạn cùng lứa có điều kiện học tiếng mẹ đẻ từ khi mới chào đời nữa.

Các bạn có thể google hai trường hợp nổi tiếng vẫn được trích dẫn trong các tài liệu về phát triển ngôn ngữ là hai em bé Genie và Victor. Genie là một em bé bị ngược đãi và nhốt trong cũi trong phòng tối và bị cấm giao tiếp. Khi tìm được em đã 12 tuổi và bất chấp nỗ lực dạy dỗ của các nhà nghiên cứu, khả năng ngôn ngữ của em vẫn không vượt được 1 đứa trẻ lên 3. Victor là đứa trẻ hoang dã bị bỏ rơi và sống với thú rừng cho đến khi em được tìm thấy năm 11 tuổi. Cũng như Genie, Victor không vượt quá khả năng của một đứa bé đang học nói. [Tuy nhiên trường hợp của các em bé như Genie cần được xem xét cẩn thận vì có những yếu tố bất lợi khác cho việc học ngôn ngữ, như chậm phát triển nói chung về nhận thức, sang chấn tâm lý].

Hoặc các nghiên cứu về trẻ em và người lớn nhập cư vào các nước nói tiếng Anh cho thấy có mối quan hệ giữa tuổi bắt đầu học ngôn ngữ và mức độ thuần thục trong ngôn ngữ đó. Theo đó việc bắt đầu học ngôn ngữ hai từ khi còn nhỏ tuổi cho kết quả khả quan hơn so với việc bắt đầu khi đã lớn tuổi.

Điều này khiến nhiều nhà nghiên cứu tin vào giả thuyết rằng có một giai đoạn nhất định trong cuộc đời để học ngôn ngữ, mà khi đã quá giai đoạn đó việc học ngôn ngữ trở nên khó khăn và năng lực bản ngữ là điều không thể đạt được nữa. Ví dụ, chúng ta có thể quan sát thấy trẻ em nhập cư dễ dàng bắt chước được giọng bản ngữ hơn là bố mẹ chúng. Người lớn khi học ngôn ngữ hai thường để lại dấu ấn tiếng mẹ đẻ trong cách phát âm và dùng ngữ điệu (accent). Trẻ em thường ít gặp phải vấn đề này hơn. Giai đoạn này hoàn thiện khi chức năng ngôn ngữ được khu biệt về bán cầu não trái (khoảng 6 tuổi).

Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây không cho rằng có sự đóng lại đột ngột của giai đoạn này. Nói cách khác, khả năng học ngôn ngữ không đột ngột biến mất sau 6 tuổi mà nó giảm từ từ). Đây là quan điểm của những nhà ngôn ngữ như Chomsky, người cho rằng việc học ngôn ngữ có tính sinh học và diễn ra theo trình tự tự nhiên. Có nghĩa là mọi em bé đều có khả năng học bất cứ ngôn ngữ nào mà các em được tiếp xúc thường xuyên từ khi ra đời. Một em bé Việt Nam sinh ra và lớn lên ở Mỹ có thể học tiếng Anh ở mức độ thuần thục như người Mỹ. Đây là một đoạn video mà mình hay cho sinh viên xem: http://www.youtube.com/watch?v=ZZOPI7DzfUY

Em bé này có khả năng rất đặc biệt. Em nói được rất nhiều ngôn ngữ, tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Trung Quốc, tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ả Rập, vv. Tất nhiên đây là trường hợp rất đặc biệt và em bé này rất có năng khiếu (không phải ai cũng có năng khiếu này). Năng khiếu của em đã được kích hoạt khi được tiếp xúc với những ngôn ngữ này từ rất sớm. Theo báo chí thì bố em là bác sỹ và bệnh nhân của ông nói các ngôn ngữ khác nhau. Em bé thường đến chỗ làm việc của bố và chơi với các bệnh nhân, từ đó học nói các ngôn ngữ khác nhau.

Trong môi trường song ngữ/ đa ngữ, việc trẻ em có thể nói được nhiều ngôn ngữ khác nhau mà không nhầm lẫn là điều hết sức bình thường (tuy có những trường hợp mới đầu các bé có thể học nói chậm hơn các bé đơn ngữ vì não của các bé còn phải phân biệt các ngôn ngữ khác nhau trước khi có thể sắp xếp chúng vào những “ngăn” khác nhau và bắt đầu sử dụng). Trẻ em song ngữ/ đa ngữ có thể chuyển đổi giữa các ngôn ngữ một cách hoàn toàn tự động và dễ dàng.

Những điều mà bài báo trên Tuổi Trẻ Online nói đều đúng. Tuy nhiên, chúng ta cần nhớ rằng đó chỉ là trường hợp của những em bé học ngôn ngữ trong môi trường tiếng. Ví dụ như Singapore, nơi sử dụng 4 ngôn ngữ chính thức và sử dụng tiếng Anh trong giáo dục, hành chính, nhà nước. Các em bé Singapore sinh ra trong môi trường bố mẹ nói tiếng Anh và tiếng dân tộc (ethnic language) thường xuyên ở nhà được coi là có hai ngôn ngữ mẹ đẻ. Việc học ngôn ngữ của các em vì thế được hỗ trợ rất nhiều: ở nhà, ở trường, ngoài xã hội, các em luôn có cơ hội để nghe và sử dụng các ngôn ngữ đó. Do đó việc học mới trở nên dễ dàng.

Nhưng ngay cả khi có môi trường như thế thì việc có thể sử dụng hai ngôn ngữ giỏi như nhau trong mọi lĩnh vực của cuộc sống (balanced bilinguals) cũng rất khó đạt được. Trên thực tế, những người như vậy trên thế giới rất hiếm. Bởi đơn giản là rất hiếm người có được điều kiện sử dụng cả hai ngôn ngữ một cách thường xuyên như nhau ở tất cả các lĩnh vực sử dụng.

Thường thì một ngôn ngữ sẽ được dùng ở nhà (ví dụ tiếng Việt đối với trẻ em người Việt nhập cư ở các nước nói tiếng Anh), và một ngôn ngữ được sử dụng trong giáo dục và giao tiếp xã hội (ví dụ tiếng Anh đối với những em bé nhập cư này). Do đó, khi lớn lên các em có thể đạt được mức độ thuần thục khi giao tiếp bằng tiếng Việt trong các tình huống quen thuộc nhưng chưa chắc đã có thể sử dụng tiếng Việt thuần thục trong giáo dục (ví dụ viết văn bằng tiếng Việt hay diễn thuyết về một đề tài chuyên môn bằng tiếng Việt).

Tuy nhiên, dù thế nào thì đối với những em bé sống trong xã hội song/ đa ngữ như kể trên, việc học các ngôn ngữ khác nhau là việc diễn ra hết sức tự nhiên do đòi hỏi tự nhiên của môi trường (cần học để giao tiếp trong gia đình và ngoài xã hội). Điều này hoàn toàn khác với việc học tiếng Anh của trẻ em Việt Nam ở Việt Nam, nơi mà ngôn ngữ duy nhất chúng ta cần cho giao tiếp trong gia đình lẫn ngoài xã hội là tiếng mẹ đẻ. Và ngôn ngữ duy nhất chúng ta tiếp xúc thường xuyên từ khi lọt lòng cũng là tiếng mẹ đẻ.

Vậy vấn đề đặt ra là ở Việt Nam có cần và có nên cho con học tiếng Anh từ khi mới lọt lòng hay không? Hay là khi nào thì nên bắt đầu cho con học tiếng Anh và học ở mức độ nào là vừa phải?

Mình nhớ hôm trước có đọc được một bài báo nói về một cô MC truyền hình nào đó ở Việt Nam. Cô này khoe rằng ở nhà chỉ nói tiếng Anh với con, mặc dù em bé này mới lọt lòng mẹ. Mình thấy hết sức là buồn cười vì điều này rất phi tự nhiên. Ngoài ra mình thấy lo lắng cho sự phát triển ngôn ngữ lẫn tâm lý của đứa bé.

Vốn liếng tiếng Nhật không đủ để cho phép cô sử dụng ngôn ngữ một cách tinh tế để thể hiện tình cảm của người mẹ với con như các bà mẹ người Nhật khác. Cô không biết cách sử dụng ngôn ngữ quyền lực khi kỷ luật con. Có những giá trị văn hóa mâu thuẫn trong hai ngôn ngữ mà cô không biết xử lý thế nào. Ví dụ tiếng Nhật phân biệt giới tính rõ rệt trong khi là một người phương Tây cô tin vào bình đẳng giới. Nhưng khi sử dụng tiếng Nhật thì cô phải dùng ngôn ngữ chuẩn theo cách người Nhật, trong khi cô lại không muốn xây dựng hình ảnh một người mẹ như vậy trong mắt các con. Có những giá trị văn hóa phương Tây cô không thể dạy cho các con nếu truyền tải bằng ngôn ngữ tiếng Nhật.

Và cô cảm thấy mình đánh mất sự liên kết với các con.

Đó chỉ là một ví dụ trong muôn vàn ví dụ về sự khó khăn khi phải dạy con bằng ngôn ngữ mình không thuần thục.

Một ví dụ khác mà mình thấy khá điển hình trong các gia đình nhập cư, đó là việc bố mẹ và con cái gặp khó khăn trong giao tiếp, dẫn đến hậu quả là đứa trẻ tự co mình khi ở nhà và chỉ trở nên vui vẻ khi được hòa nhập với các bạn ở trường. Một chị bạn mình kể lại rằng con trai của bạn chị ấy sinh ra và lớn lên ở Úc. Như các bố mẹ nhập cư khác, bố mẹ ép cháu phải nói tiếng Việt ở nhà để giữ được “ngôn ngữ thừa kế”.

Chị kể lại rằng mỗi khi ở nhà, cháu bé rất ít nói vì tuy cháu có thể hiểu tiếng Việt, cháu không thể diễn đạt một cách thoải mái những câu phức tạp trong ngôn ngữ này. Chỉ đến khi chị bắt đầu nói chuyện với cháu bằng tiếng Anh thì cháu mới hoạt bát trở lại và “như biến thành một con người khác hoàn toàn” (nguyên văn lời chị kể).

Trở lại trường hợp cô MC nói trên, rất có thể cô ây sẽ gặp phải một trong những rắc rối mà mình vừa kể. Việc cô ấy ép buộc em bé phải nghe và nói tiếng Anh rất giống với việc cha mẹ nhập cư bắt con giao tiếp với mình bằng tiếng mẹ đẻ, thứ ngôn ngữ mà đứa trẻ kém thông thạo hơn (1). (Tuy nhiên, trường hợp thứ hai còn có lý do chính đáng, chứ mình không thấy có lý do chính đáng nào để bắt một em bé Việt Nam sống ở Việt Nam phải nói chuyện với cha mẹ bằng tiếng Anh cả).

Em bé của cô ấy rất có thể cũng sẽ phản ứng như đứa bé trong câu chuyện trên. Đó là mình còn chưa nói việc cô ấy tước đoạt cơ hội học tiếng mẹ đẻ của em bé trong giai đoạn tối quan trọng của cuộc đời em bé còn có thể dẫn đến việc em bé không thể phát triển ngôn ngữ mẹ đẻ một cách hoàn thiện khi lớn lên. Điều đó mới là nguy hiểm.

Ngoài ra, mình không biết khả năng tiếng Anh của cô MC này thế nào. Nếu tiếng Anh của cô ấy không chuẩn thì kết quả sẽ càng tồi tệ. Nên nhớ rằng, một đứa trẻ lớn lên trong môi trường song ngữ còn có tiếp xúc ngôn ngữ chuẩn ở nhà trường và ngoài xã hội để bù đắp cho sự thiếu hụt từ cha mẹ. Chứ một em bé lớn lên ở VN thì không có điều kiện ấy. Cuối cùng, để kết thúc note này, mình trở lại với câu hỏi vậy có nên dạy trẻ em tiếng Anh quá sớm không? Câu trả lời là “Để làm gì?”

Trẻ em Việt Nam lớn lên ở Việt Nam không có điều kiện tự nhiên như trẻ em lớn lên trong môi trường song/ đa ngữ, cho nên không có gì đảm bảo rằng những lợi ích của việc học hai ngôn ngữ từ sớm như bài báo trên kia đề cập có thể áp dụng cho trẻ em Việt Nam ở Việt Nam.

Trong trường hợp xấu, tâm lý và tính cách của đứa trẻ còn có thể bị ảnh hưởng như đã nói. Ngoài ra, khả năng nhận thức được phát triển tốt nhất thông qua ngôn ngữ mà đứa trẻ thành thạo nhất.

Mình cho rằng nhiệm vụ đầu tiên của mỗi đứa trẻ Việt Nam sống ở Việt Nam là nắm cho vững ngôn ngữ mẹ đẻ. Không nắm vững ngôn ngữ mẹ đẻ sẽ là một thiệt thòi khi đi học, bởi ở trường, các kỹ năng và môn học được dạy bằng tiếng Việt. Và các giao tiếp xã hội đều cần tiếng Việt.

Trừ khi bạn có có dự tính cho con học trường Tây từ mẫu giáo và lớn lên thì sang hẳn Tây sinh sống thì mới nên dạy tiếng Anh cho bé song song với việc dạy tiếng Việt. Nhưng nhớ rằng không có gì đảm bảo là con bạn sẽ học được cả hai ngôn ngữ 1 cách thuần thục, trừ khi bạn xây dựng một môi trường nhân tạo để con bạn có động cơ và điều kiện tiếp xúc với đầu vào ngôn ngữ chuẩn trong cả hai ngôn ngữ và sử dụng cả hai ngôn ngữ với tần suất sử dụng gần như nhau.

Còn nếu không thì không để làm gì cả. Đợi bé lớn lên, học tiếng Anh cũng chưa muộn.

Ghi chú:

(1) Ở những gia đình mà cha mẹ đầu tư để dạy con nắm vững ngôn ngữ thừa kế thì vấn đề này sẽ ít có khả năng xảy ra hơn.

[/like-and-read]

Comments

Trẻ Em Mỹ Học Mỹ Thuật Như Thế Nào?

Trẻ em Mỹ học mỹ thuật như thế nào?, Từ thế kỷ 20, nhiều nhà nghiên cứu nghệ thuật và lịch sử đánh giá rằng kinh đô văn hóa nghệ thuật của thế giới dường như đang dần chuyển mình từ nước Pháp sa hoa, tráng lệ sang nước Mỹ mới chỉ có lịch sử khoảng 300 năm nhưng nhờ kinh tế phát triển và đa sắc tộc giúp nghệ thuật có điều kiện phát triển về mọi mặt. Trẻ em nơi đây ngày được dạy học nghệ thuật một cách bài bản từ nhỏ để tìm ra những thiên tài xuất chúng cho thế giới hiện đại, đặc biệt là lĩnh vực hội hoạ mỹ thuật, vậy trẻ em Mỹ học mỹ thuật như thế nào?

Các bé thoả sức tô màu yêu thích lên những bức tranh

Các yếu tố trong Mỹ thuật

– Hiểu được người hoạ sỹ là gì, cần có những yếu tố thiên bẩm nào để trở thành một hoạ sỹ, cần điều gì để duy trì đam mê nghệ thuật của người hoạ sỹ.

– Thường xuyên phá cách và sáng tạo để tạo ra lối vẽ riêng đặc trưng cho tính cách và phong cách hội hoạ mà mình theo đuổi, diễn đạt được ý nghĩ mình muốn biểu đạt, truyền tải thông điệp ý nghĩa tới mọi người.

– Đưa những hình ảnh quen thuộc, gần gũi trong cuộc sống như phong cảnh, cuộc sống thường nhật, chân dung, nội dung câu chuyện trẻ từng nghe vào trong bức tranh

– Biết sử dụng những công cụ vẽ đúng cách, phối màu hài hoà, bảo quản tranh vẽ, dụng cụ vẽ cũng như bảo vệ cuộc sống của mình vậy.

– Hiểu rằng trong mỹ thuật có nhiều hình thức thể hiện khác nhau, trong đó bao gồm các thể hiện 2 chiều và 3 chiều. ( 2D, 3D), từ đó áp dụng nó trong sáng tạo tác phẩm

– Áp dụng các kỹ năng tư duy và kiến thức chuyên sâu về hội hoạ để phân tích về tác phẩm của mình cũng như bình phẩm về tác phẩm của người khác. Nhận ra những nơi có thể phù hợp cho việc trưng bày các tác phẩm nghệ thuật.

– Hiểu rõ được các kiến thức căn bản trong hội hoạ như

+ Biểu diễn lập thể ở 3 mặt sáng, xám, và mặt tối.

+ Có 5 sắc độ sáng tối là Về sắc độ, có 5 mức độ của sáng tối: phần sáng, phần trung gian, phần giao diện, phần phản quang và phần bóng đổ

– Phân biệt rõ đường vẽ và nét vẽ + Đường vẽ trên lí trí và cố định, diễn tả sự vật một cách khô cứng

+ Nét vẽ thuộc về tình cảm, tuỳ cảm hứng của người hoạ sỹ và rất linh động, có hồn.

Các cô giáo chỉ bảo các em vẽ tranh tỉ mỉ

Lịch sử của hội hoạ:

– Phân biệt được những trường phái hội hoạ lớn, sức ảnh hưởng của nó và những thời kỳ phát triển mạnh của nó cũng như những hoạ sỹ tiêu biểu cho trường phái đó, từ đó so sánh điểm đặc trưng của từng trường phái:

– Nhận dạng được các hình thức biểu diễn hội hoạ: tranh vẽ, điêu khắc, kiến trúc, nghệ thuật phong cảnh.

– Nhận ra tầm ảnh hưởng của văn hoá tới nghệ thuật thông qua các công trình kiến trúc lịch sử hay những bức tranh

Những bức tranh ngộ nghĩnh đáng yêu của các bé

– Sản phẩm

+ Biết cách sử dụng đúng cách và phối hợp các công cụ như sáp màu, màu dạ, sơn dầu, phấn, mầu nước, sơn keo (tempera), sợi, đất sét và các nguyên liệu tự nhiên. Bảo vệ các dụng cụ như những đồ vật quý trọng nhất.

+Làm từng bước với sự hướng dẫn có trình tự của giáo viên để tạo những dự án mang tính kế thừa.

+ Tự do sử dụng vật liệu, chất liệu mà không cần chỉ dẫn, tạo cơ hội để hoàn toàn sáng tạo và biểu đạt được những lựa chọn mang màu sắc cá nhân.

Trẻ Em Nhật Học Chữ Hán (Kanji) Như Thế Nào?

( 9 votes, average: 5.00 out of 5)

Người lớn chúng mình học chữ Hán 漢字かんじ Kanji vô cùng khó khăn. Người Việt mình còn có cách học kanji theo kiểu Hán Việt, tuy nhiên các bé sinh ra và lớn lên tại Nhật Bản thì tiếng Việt chưa đủ giỏi để học theo cách này thì nên các bé sẽ học theo cách trẻ em Nhật học. Do đó, chúng ta nên tham khảo cách trẻ em Nhật học Kanji như nào để biết mà theo dõi việc học hành của con cái. Ở bài viết này, KVBRO tổng hợp một số thông tin học hành tại trường cũng như tự học tại nhà của các bé bản xứ cho các bạn tham khảo.

Khi trẻ thật sự nghiêm chỉnh học kanji trong giờ kokugo, có nhiều kỹ năng được học chứ không chỉ luyện viết chữ đẹp, bởi khi nhìn vào sách giáo khoa bạn sẽ nhận thấy điều đó. Cùng với nghĩa của từ, thứ tự các nét viết và các cách đọc khác nhau cho mỗi từ kanji, còn có nhiều bức tranh sinh động đầy màu sắc thu hút các bạn nhỏ và dễ hiểu để thực hành đặt câu. Các bạn nhỏ cũng được dạy rất nhiều tips và kỹ xảo để sửa một từ kanji.

Thông thường sẽ có một câu ngắn và hai cách đọc khác nhau được làm nổi lên hoặc các từ sử dụng kanji. Sách cũng làm sinh động hơn cho trẻ dễ nhớ khi liên kết với những vật trong đời sống hằng ngày, chẳng hạn như từ 開, có nghĩa là “mở”, vẽ hai cánh tay nắm cửa để mở ra. Cũng có các cách thức nối các phần khác nhau của kanji lại, chẳng hạn nối từ 言(nói) với từ 寺 (chùa) sẽ thành từ 詩(thơ).

Tranh và câu có thể chỉ ra sự khác biệt giữa các từ được phát âm giống nhau, nhưng viết bởi những kanji khác nhau. Chẳng hạn, từ 上る và 登る đều được phát âm là noboru, và có thể sử dụng để miêu tả việc đi lên núi, nhưng khi từ đầu tiên có nghĩa chung chung, từ thứ hai dùng để chỉ việc leo núi có sự nỗ lực về mặt thể chất. Sách cũng có nội dung về câu đố và đố chữ, chủ yếu là làm cho trẻ thấy học kanji thật vui.

Hầu hết mọi giáo viên, học sinh, giáo trình và nguồn tra cứu chỉ bạn cách học tương tự như trẻ em Nhật Bản học. Mới đầu, dường như có nhiều cách giống nhau để làm. Tuy nhiên, nếu bạn tìm hiểu kỹ hơn sẽ thấy không có ý nghĩa lắm.

Có hai phần cơ bản khi học kanji. Đầu tiên, là kanji trông như thế nào. Mỗi kanji là một bức tranh/logo/hình ảnh riêng. Mỗi kanji nhìn khác nhau. Phần thứ hai là nghĩa của mỗi kanji. Bởi mỗi kanji nhìn khác nhau một chút, mỗi kanji có một nghĩa riêng. Khi học kanji, bạn cần cả hai phần này dù bạn là học sinh tiểu học hay là lớn tuổi mới học như mình.

Mặc dù vậy, các bạn học sinh Nhật phải học kanji bằng cách học kanji với nghĩa đơn giản nhất trước. Điều này thật sự hữu ích cho các bạn nhỏ (không phải cho người lớn), bởi vì các bạn còn nhỏ và cần phải học từ vựng (và trẻ không thể nhớ nếu nghĩa quá khó). Điều này cũng giống như tiếng Anh hay tiếng Việt thôi.

Rõ ràng khả năng viết kanji được củng cố bằng việc lập đi lập lại, nhưng các kỹ thuật khác cũng chiếm vai trò quan trọng đối với những người bắt đầu. Thậm chí khi các từ vựng khó hơn ở cấp hai và cấp ba, vẫn có những tiểu xảo thông dụng để nhớ cách ghi. Vai trò của việc đọc không thể bị phớt lờ, nhìn thấy chữ kanji nhiều lần trong các nội dung có nghĩa sẽ giúp trẻ nhớ kanji đó, đó là lý do tại sao các trường học thường sắp xếp giờ đọc trong cả tuần. Các trường cũng rất khuyến khích bé tự đọc, thông thường hàng tuần bé nhà mình mượn sách ở thư viện về đọc tại nhà.

LỢI ÍCH TIỀM ẨN CỦA VIỆC VIẾT TAY

Một vài sinh viên nước ngoài bắt đầu học tiếng Nhật khi lớn tuổi có thể chọn không dành thời gian học viết bằng tay. Đây có thể là một quyết định hợp lý trong thời đại máy tính và smartphone, khi rất ít giao tiếp được thể hiện trên giấy. Ưu tiên các lĩnh vực khác trong tiếng Nhật có thể được xem là thông minh trong những bước học đầu tiên. Thậm chí như vậy, viết tay vẫn là một kỹ năng đem lại nhiều lợi ích tiềm ẩn.

Đầu tiên, việc viết đi viết lại có thể giúp nền tảng kiến thức chắc chắn hơn đọc một mình. Viết cũng củng cố trẻ tập trung vào hình dạng của từ, nhấn mạnh sự khác biệt giữa các từ kanji tương tự, chẳng hạn từ 千(せん・1.000) và 干(ひ・khô) hoặc 微 (かす・văng vẳng) 徴(しるし・ký hiệu). Cả hai yếu tố này có thể làm cho từ dễ nhận biết hơn khi trẻ học đọc.

Chép các câu ví dụ cũng khá hữu ích khi thực hành đọc. Khi viết học sinh có thể nghiền ngẫm chậm rãi, khuyến khích các bé cẩn thận hơn với nội dung. Cách này giúp thấm nhuần kiến thức tiếng Nhật một cách tự nhiên và cấu trúc làm sao cho từ hợp với nhau.

NGUỒN TÀI LIỆU MIỄN PHÍ ONLINE

Ngoài ra, còn có các apps trên IOS hay Android, các bạn chỉ cần type vào 1年生漢字 hay 2年生漢字…, sẽ liệt kê ra nhiều apps miễn phí, chủ yếu giúp luyện nét viết và nhớ nghĩa.

Ngoài, các sách luyện thi Kanji Teiken thì trình bày ở trên, còn có các bộ sách cho bé tự luyện tập tại nhà. Đang làm mưa làm gió trên thị trường chính là bộ うんこ漢ドリル (unko kanji doriru – tập viết kanji thông qua các từ vựng khi đi vệ sinh) – vì rất hài hước nên các bé rất yêu thích. (Bạn mua online trên Rakuten Book đều free ship)

Đánh giá bài viết: ( 9 votes, average: 5.00 out of 5)

KVBro-Nhịp sống Nhật Bản