Top 11 # Trẻ Em Hàn Quốc Học Tiếng Hàn Như Thế Nào Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Lienminhchienthan.com

Người Hàn Quốc Học Tập Như Thế Nào?

Hàn Quốc 1,366 Lượt xem

Từ bậc mẫu giáo trẻ em đã được đào tạo một cách bài bản

Cũng giống như ở Việt Nam, trẻ em Hàn Quốc sẽ bắt đầu đi học từ khi 3 – 4 tuổi. Lúc này, trẻ em sẽ được đưa đến các trường mẫu giáo để quen dần việc học tập và được rèn giũa bởi các cô giáo.

Phương châm giảng dạy ở bậc mẫu giáo của người Hàn Quốc là “vừa học vừa chơi”. Các bé sẽ bắt đầu được học tiếng Hàn, những điều cơ bản nhất về thế giới xung quanh, khoa học, xã hội, ngoại ngữ, âm nhạc, hội họa và còn được làm quen với nhạc thính phòng.

Môi trường học tập của các bé trong chỉ ở trong 4 bức tường mà còn được tiếp xúc với cả thiên nhiên bên ngoài. Các trường học thường xuyên tổ chức những chuyến đi dã ngoại mà không có bố mẹ đi cùng.

Chính vì phương pháp giáo dục hiện đại nên trẻ em Hàn Quốc biết cách sống tự lập, có thể tự ăn, làm những việc cá nhân hàng ngày và đặc biệt chúng rất biết các nghe lời cha mẹ.

Trẻ em Hàn Quốc được học tiếng anh ngay từ khi còn nhỏ nên nhiều khi nói chuyện với chúng bạn sẽ phải vò đầu bứt tai vì không hiểu được những câu nói đa ngôn ngữ.

Người Hàn Quốc luôn đề cao việc thi đậu và học tập tại các trường đại học

Sinh viên Hàn Quốc có tính tự học rất cao

Người Hàn Quốc luôn đề cao việc thi đậu và học tập tại các trường đại học. Do đó, khi đã trở thành một sinh viên đại học thì việc tự học đối với các bạn trẻ Hàn Quốc là điều tất yếu vì đây chính là giai đoạn cần thiết để trau dồi kiến thức cũng như học tập thêm nhiều kiến thức và kinh nghiệm mới mẻ cho tương lai sau này.

Hầu hết sinh viên Hàn Quốc đều học tập rất chăm chỉ và vất vả. Họ sẽ phải học tập rất nhiều môn, từ những môn lý luận chung, môn chuyên ngành cho tới ngoại ngữ. Về điểm này thì sinh viên Hàn Quốc rất giống với sinh viên Việt Nam. Nhưng điều đáng nói nhất ở đây chính là khả năng tự học của họ rất cao. Nếu bạn đang học tập tại bất cứ trường đại học nào tại Hàn Quốc thì rất thường xuyên bắt gặp những phòng tự học có đèn sáng thâu đêm hoặc không còn chỗ trống cho sinh viên.

Vào mùa thi cử, vì sợ không có chỗ ngồi nên nhiều sinh viên đã phải giữ chỗ bằng cách đặt sách vở và tài liệu của mình tại bàn học. Nhiều bạn sinh viên còn mang theo đồ ăn và chăn cùng với những chồng sách dày cộp để có thể tiết kiệm thời gian học tập.

Lòng tự trọng và tính tự giác trong học tập của người Hàn Quốc còn được thể hiện qua cách mà họ thực hiện những bài thi. Cũng giống như nhiều quốc gia khác trên thế giới, sinh viên Hàn Quốc cũng sẽ phải trải qua các kỳ thi với những bài thi tự luận, trắc nghiệm và vấn đáp. Nếu không làm được bài, họ sẵn sàng nộp giấy trắng chứ không ngồi câu giờ, quay cóp hoặc trao đổi bài với người khác.

Tất nhiên vẫn sẽ có một số các nhân gian lận trong những kỳ thi nhưng con số này tại Hàn Quốc rất ít vì những bài thi ở bậc đại học sẽ được chấm và đánh giá rất cẩn thận. Đối với sinh viên đại học tại Hàn Quốc thì việc tiếp nhận kiến thức là điều vô cùng quan trọng.

Việc xét tốt nghiệp thạc sĩ hay tiến sĩ của bạn nhanh hay chậm sẽ dựa vào những đánh giá thực tế

Sự khắc nghiệt của hệ đào tạo sau đại học tại Hàn Quốc

Tại hệ đào tạo này, kết quả học tập sẽ không còn quá đề cao đến những kiến thức bạn tiếp thu được mà chủ yếu dựa vào những kết quả nghiên cứu khoa học. Chính vì thế việc học các môn ở hệ sau đại học rất nhẹ nhàng. Thay vào đó, bạn sẽ phải khẳng định khả năng của bản thân bằng sự nỗ lực trong nghiên cứu khoa học và những bài báo khoa học quốc tế.

Việc xét tốt nghiệp thạc sĩ hay tiến sĩ của bạn nhanh hay chậm sẽ dựa vào những đánh giá thực tế. Có những người có năng lực tốt sẽ chỉ mất từ 3 đến 5 năm để tốt nghiệp thạc sĩ, tiến sĩ nhưng cũng có người mất đến 8 năm mới tốt nghiệp thạc sĩ.

Với sự đánh giá rất khắc nghiệt như vậy nên sẽ không lạ với những hình ảnh các phòng nghiên cứu trong các trường của Hàn Quốc hoạt động 24/24. Thậm chí có nhiều nghiên cứu sinh còn ăn ngủ ngay trong phòng thí nghiệm.

Với những chia sẻ phía trên của công ty du học HFC, chắc các bạn có thể thấy được hệ thống giáo dục của Hàn Quốc có định hướng rất rõ ràng cho từng bậc học. Và học tập tại Hàn Quốc không phải là một chuyện đơn giản. Nhưng khi được học tập trong môi trường khắc nghiệt đó thì các bạn sẽ có đầy đủ kiến thức, bản lĩnh để làm những công việc trong một môi trường chuyên nghiệp mang tầm cỡ quốc tế và nhanh chóng trưởng thành hơn. Hãy đừng ngần ngại mà hãy nhanh chóng thực hiện ước mơ đi du học Hàn Quốc của bản thân.

Người Hàn Quốc Học Hành Như Thế Nào?

Ở Hàn Quốc trẻ em cũng được đưa tới các trường mẫu giáo để làm quen với môi trường cộng đồng từ lúc 3- 4 tuổi. Với phương châm chính của thời gian mẫu giáo là trẻ nhỏ có thể vừa học vừa chơi. Điều này giúp bé phát triển tư duy, khám phá môi trường bên ngoài và hòa đồng hơn với cộng đồng.

Môi trường học tập của các bé khá đa dạng không chỉ bị bó hẹp trong 4 bức tường mà có thể là các chuyến dã ngoại. Nhờ phương pháp giáo dục từ bé, trẻ em Hàn Quốc có thể tự lập nhanh chóng, tự ăn và làm những việc cá nhân khi không có bố mẹ bên cạnh.

Việc thi đại hoc tại Hàn Quốc khá khó khăn vì thế nên việc thi đậu đại học luôn được đánh giá cao. Để trở thành một tân sinh viên bạn cần có tính tự học rất cao để trau dồi kiến thức và kinh nghiệm học tập.

Nếu bạn để ý sẽ thấy sinh viên Hàn Quốc thông qua phim ảnh có vẻ rất chăm chỉ. Để thi đại học tại Hàn họ phải học khá vất vả và nhiều môn học từ lý luận, chuyên ngành đến ngoại ngữ. Khả năng tự học của sinh viên Hàn Quốc khá cao vào những kỳ thi các phòng tự học thường sáng đèn đến suốt đêm thâm chí sinh viên còn phải xếp chỗ trước để lấy chỗ ngồi.

Tính tự giác không chỉ trong học tập mà còn thể hiện trong thi cử. Sinh viên sẵn sàng nộp giấy trắng chứ không câu giờ hay quay cóp.

Sự khác nghiệt của bậc sau đại học

Bậc sau đại học thì kết quả học tập không phải là điều quan trọng nhất mà nó dựa vào kiến thức bạn thu được và quá trình nghiên cứu của bạn. Chính vì thế các môn học trong hệ này khá nhẹ nhưng thay vào đó bạn phải chứng tỏ bản thân có năng lực và có những nghiên cứu.

Xét trên kiến thức và những nghiên cứu và kiến thức tích lũy bạn có thể được xét tốt nghiệp thạc sĩ, tiến sĩ nhanh hay chậm. Có người phải mất tới hơn 8 năm để nhận được bằng nhưng có những người tài giỏi chỉ mất hơn 3 năm đã hoàn thành bậc học.

Như vậy bạn cũng thấy rõ giáo dục Hàn Quốc đã có định hướng rõ ràng qua từng bậc học khác nhau. Vì vậy việc học tập tại Hàn Quốc không hề dễ dàng, bạn nên xem xét kỹ trước khi đi du học tại Hàn Quốc.

Trẻ Em Học Ngôn Ngữ Như Thế Nào?

Phần 1: Trẻ em học ngôn ngữ như thế nào? (1)

Một số nhà nghiên cứu cho rằng trẻ em nghe được âm thanh ngôn ngữ từ trong bụng mẹ. Họ cho tiến hành một thí nghiệm để chứng minh điều này. Trước tiên, họ cho những người mẹ trong thai kỳ cuối (3 tháng cuối) chọn một trong ba câu chuyện của trẻ em và đọc nó cho em bé trong bụng nghe mỗi ngày hai lần, cho đến ngày lâm bồn. Ba ngày sau khi các em bé chào đời, họ cho các bé nghe ba câu chuyện được thu băng. Kết quả cho thấy các bé phản ứng rõ rệt với câu chuyện đã từng được nghe nhiều lần trong bụng mẹ.

… Sắp tới mình sẽ làm một nghiên cứu về việc trẻ em song ngữ ở Singapore đắc thụ năng lực ngữ dụng trong tiếng Anh như thế nào (đề tài đã được duyệt và cấp kinh phí). Đối tượng nghiên cứu của mình là các em bé từ 2 tuổi đến 5 tuổi, lứa tuổi mà sự phát triển ngôn ngữ diễn ra mạnh mẽ nhất trong cuộc đời một con người. Có lẽ các bạn không biết rằng, khoảng 90% khả năng ngôn ngữ của con người được đắc thụ trong giai đoạn trước khi chúng ta bước vào lớp một :). Mười phần trăm còn lại sẽ được hoàn thiện dần trong những năm đi học ở nhà trường.

Thật đáng kinh ngạc phải không? Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ trẻ em đều quan tâm đến câu hỏi, việc học ngôn ngữ diễn ra như thế nào trong những năm đầu đời, và bắt đầu từ khi nào. Theo các bạn thì là khi nào? Các bạn có tin nếu mình nói việc học ngôn ngữ diễn ra trước khi các em bé chào đời, nghĩa là từ trong bụng mẹ?

From Hana Nguyen Facebook missing

Điều này chứng tỏ ngay từ khi chỉ là một bào thai, các bé đã ‘bắt nhịp’ được với những âm tiết trong ngôn ngữ mẹ đẻ. Và điều này cũng chứng tỏ não của các bào thai được cấu tạo để xử lý các âm tiết của ngôn ngữ con người.

Quá trình phát triển ngữ âm diễn ra từ rất sớm. Đến khoảng tháng thứ mười, bé bắt đầu biết tạo ra các âm tiết trong tiếng mẹ đẻ. Ngữ điệu là cái mà bé có thể sử dụng đầu tiên để tạo nghĩa, ngay cả trước khi các bé có thể phát âm được một cách rõ ràng các âm tiết. Không biết mọi người đã xem đoạn youtube về hai em bé sinh đôi nói chuyện với nhau chưa?

Đoạn video này cho thấy hai bé đã biết sử dụng ngữ điệu thành thạo để giao tiếp, rất buồn cười và đáng yêu 🙂 (điều đặc biệt về hai bé này là các bé còn biết cách take turn rất giống người lớn khi hội thoại nữa :P). Một ví dụ khác mình hay lấy cho sinh viên xem là đoạn video này:

Em bé trong đoạn video này chưa phát âm sõi được một số từ nhưng đã có thể bắt chước ngữ điệu rất giống bố :).

Từ một tuổi đến 5 tuổi, trẻ em phát triển ngôn ngữ rất nhanh. Cột mốc đầu tiên là sau sinh nhật một tuổi các bé bắt đầu phát âm được một số từ (tuy nhiên trẻ em học ngôn ngữ với tốc độ khác nhau, có bé biết nói sớm hơn, có bé biết nói chậm hơn. Mẹ mình bảo mình biết nói từ 10 tháng, trong khi em trai mình thì ngoài 1 tuổi mới biết nói :P). Mới đầu việc học từ vựng diễn ra chậm, nhưng sau khi các bé tích lũy được khoảng 50 từ thì bắt đầu … tăng tốc :D. Khi bé được một tuổi rưỡi trở ra, mỗi ngày bé có thể học đến 5 từ mới (tuy nhiên, xin nói lại lần nữa là trẻ em học với tốc độ khác nhau nên không cần phải quá lo lắng nếu em bé của mình học chậm hơn các bạn khác). Và cho đến khi vào lớp 1 thì vốn từ vựng của bé đã có khoảng 10-14,000 từ (đây là nói về trẻ em đơn ngữ. Trẻ em song ngữ có thể có khối lượng từ vựng trong mỗi ngôn ngữ ít hơn so với trẻ em đơn ngữ vì không phải em nào cũng có cơ hội được sử dụng cả hai ngôn ngữ ở mọi tình huống giống nhau). Đến khi tốt nghiệp phổ thông thì vốn từ vựng đã rất phong phú, khoảng 50,000 từ.

Trẻ học từ vựng & ngữ pháp thế nào?

Về mặt hình thái học và ngữ pháp, làm thế nào để bé nắm vững được những quy luật hết sức phức tạp của ngôn ngữ? Việc học này diễn ra hoàn toàn tự nhiên, và tất nhiên có vai trò lớn của khả năng nhận thức. Hay nói cách khác, phát triển ngôn ngữ và phát triển nhận thức ở trẻ em gắn bó chặt chẽ và có tác động qua lại với nhau.

Nhà nghiên cứu Brown quan sát 3 trẻ em người Anh học tiếng mẹ đẻ và phát hiện ra các em học hình vị trong tiếng Anh theo một thứ tự nhất định. Điều thú vị là khi nghiên cứu này lặp lại ở trẻ em học tiếng Anh như ngôn ngữ hai thì cũng tìm được kết quả tương tự, mặc dù thứ tự này có một vài điểm khác với thứ tự của trẻ em bản ngữ tiếng Anh.

Ví dụ, các em đều đắc thụ dạng thức -ing của động từ trước khi đắc thụ dạng thức số nhiều của danh từ hoặc dạng thức quá khứ của động từ. Các nhà nghiên cứu lý giải rằng việc học ngôn ngữ ban đầu của trẻ em gắn với những sự kiện hàng ngày của các em, và hết sức cụ thể, không tách rời ngữ cảnh “ở đây và bây giờ” (now and here). Các em học được dạng thức -ing đầu tiên là bởi khi chơi với các em bố mẹ thường hay dùng dạng thức này để mô tả các hiện tượng đang diễn ra. Và các em chỉ học được thời quá khứ (một khái niệm đã tách khỏi ngữ cảnh “ở đây và bây giờ”) khi đã có khái niệm trừu tượng về thời gian.

Tương tự, nghiên cứu trong nhiều ngôn ngữ cho thấy trẻ em học câu hỏi what/ where/ who trước khi học được câu hỏi when & why, vì các em có khái niệm “thời gian” và “nhân quả” muộn hơn so với khái niệm “ai/ cái gì/ ở đâu” (gắn liền với ngữ cảnh cụ thể “ở đây và bây giờ”).

Hoặc khi yêu cầu các em nhỏ dưới 6 tuổi đưa ra một định nghĩa về một từ vựng, thường các em chỉ có thể miêu tả những tính chất cụ thể của từ đó, chứ không thể khái quát hóa và liên hệ nó với các từ vựng khác. Khả năng này chỉ có được khi nhận thức về thế giới của các em đã phát triển hơn.

Thí nghiệm WUG số nhiều

Trở lại câu hỏi làm thế nào trẻ em học được các quy luật hết sức phực tạp của ngôn ngữ? Ví dụ, làm thế nào các em học được khái niệm số ít/ số nhiều của danh từ trong tiếng Anh? Các em sẽ học từ “apples” như là 1 đơn vị từ vựng (coi như 1 từ) hay là các em biết

apples

được cấu tạo từ

apple + s

?

Kết quả: 90% trẻ em khảo sát đã điền được từ

wugs

. Điều này có nghĩa là gì? Có nghĩa là các em đã khám phá được quy luật hình thái học để cấu tạo danh từ số nhiều. Đối với các em

apples

không phải là 1 từ vựng riêng biệt mà là 1 hình thái khác của

apple

.

Việc khám phá này diễn ra hoàn toàn tự nhiên, không cần được ai dạy. Các nhà ngôn ngữ theo trường phái của Chomsky coi đây như bằng chứng cho thấy khả năng học ngôn ngữ là khả năng bẩm sinh của con người, mà chỉ có con người mới có được (những nỗ lực dạy ngôn ngữ con người trong đó có sử dụng cả ngôn ngữ ký hiệu cho loài tinh tinh hay loài vẹt đều thất bại). Và rằng khả năng học ngôn ngữ đã được lập trình sẵn trong não. Chương trình này chỉ cần tiếp xúc với đầu vào ngôn ngữ là có thể được kích hoạt.

Khả năng khám phá quy luật ngôn ngữ của trẻ em còn thể hiện ở những lỗi “khái quát hóa” rất dễ thương của các em. Ví dụ các em bé con bạn tôi ở bên này thường hay mở rộng dạng thức -ing của động từ trong tiếng Anh sang tiếng Việt, ví dụ bảo mẹ “Mommy, I’m tắm-ming”. Trẻ em người Anh thì có thể nói “I’m supermanning” (khái quát từ danh từ “superman”) hoặc dùng động từ quá khứ sai, ví dụ I seed a lion (thay vì I saw a lion). Những lỗi này cho thấy các em đang tham gia tích cực vào việc tìm ra các quy luật ngôn ngữ và thử nghiệm chúng :).

Ví dụ trong ngôn ngữ khác

Nếu mà nghĩ đến các ngôn ngữ có hệ thống ngữ pháp hết sức phức tạp thì mới thấy việc học ngôn ngữ của trẻ em diễn ra kỳ diệu như thế nào. Ví dụ trong tiếng Nga có cả thẩy là 6 cách của động từ, 3 giống và 2 số của danh từ. Mỗi khi sử dụng thì phải kết hợp sao cho phù hợp về giống, số, cách. Tiếng Pháp cũng có 3 giống và 2 số của danh từ, đòi hỏi khi sử dụng với tính từ phải phù hợp về giống và số. Hai ngôn ngữ này sử dụng rất khó, đòi hỏi phải đạt được mức độ kiểm soát chú ý cao mới sử dụng đúng như người lớn bản ngữ được. Vậy mà không cần ai dạy (các nghiên cứu cho thấy bố mẹ rất ít khi sửa lỗi ngữ pháp của con mà thường hay sửa lỗi ngữ nghĩa và ngữ dụng), trẻ em vẫn có thể nắm bắt một cách thuần thục. Tất nhiên, điều đó không có nghĩa là ở những năm đầu đời, các em đã đạt được độ hoàn hảo của ngôn ngữ người lớn. Nhưng có thể nói, trước khi các em đến trường thì đã có một số vốn rất cơ bản về ngôn ngữ mẹ đẻ rồi. Phần hoàn thiện các cấu trúc khó, các âm tiết khó, mở rộng từ vựng cũng như sắc thái ngữ nghĩa của từ vựng và trau giồi kỹ năng giao tiếp sẽ diễn ra trong giai đoạn tiếp theo.

[like-and-read]

Phần 2: Trẻ em học ngôn ngữ như thế nào? (2) (hay cha mẹ có nên cho con học tiếng Anh từ bé không?)

Thực ra lý do để mình viết note vừa rồi, và note này là vì bài báo trên Tuổi Trẻ online mà một số trung tâm ngoại ngữ đã trưng lên để lôi kéo phụ huynh gửi con đến học tiếng Anh với họ:

Như đã nói ở note trước, trẻ em có một khả năng học ngôn ngữ kỳ diệu, mà người lớn không thể so sánh được. Trường hợp của các em bé bị tước đoạt ngôn ngữ (bị bỏ rơi và được thú rừng nuôi nấng, hay bị lạm dụng và tách biệt khỏi đời sống con người) cho thấy khi được đưa trở lại với đời sống con người ở lứa tuổi thiếu niên, các em không có khả năng nắm bắt được ngôn ngữ mẹ đẻ ở mức độ thuần thục như các bạn cùng lứa có điều kiện học tiếng mẹ đẻ từ khi mới chào đời nữa.

Các bạn có thể google hai trường hợp nổi tiếng vẫn được trích dẫn trong các tài liệu về phát triển ngôn ngữ là hai em bé Genie và Victor. Genie là một em bé bị ngược đãi và nhốt trong cũi trong phòng tối và bị cấm giao tiếp. Khi tìm được em đã 12 tuổi và bất chấp nỗ lực dạy dỗ của các nhà nghiên cứu, khả năng ngôn ngữ của em vẫn không vượt được 1 đứa trẻ lên 3. Victor là đứa trẻ hoang dã bị bỏ rơi và sống với thú rừng cho đến khi em được tìm thấy năm 11 tuổi. Cũng như Genie, Victor không vượt quá khả năng của một đứa bé đang học nói. [Tuy nhiên trường hợp của các em bé như Genie cần được xem xét cẩn thận vì có những yếu tố bất lợi khác cho việc học ngôn ngữ, như chậm phát triển nói chung về nhận thức, sang chấn tâm lý].

Hoặc các nghiên cứu về trẻ em và người lớn nhập cư vào các nước nói tiếng Anh cho thấy có mối quan hệ giữa tuổi bắt đầu học ngôn ngữ và mức độ thuần thục trong ngôn ngữ đó. Theo đó việc bắt đầu học ngôn ngữ hai từ khi còn nhỏ tuổi cho kết quả khả quan hơn so với việc bắt đầu khi đã lớn tuổi.

Điều này khiến nhiều nhà nghiên cứu tin vào giả thuyết rằng có một giai đoạn nhất định trong cuộc đời để học ngôn ngữ, mà khi đã quá giai đoạn đó việc học ngôn ngữ trở nên khó khăn và năng lực bản ngữ là điều không thể đạt được nữa. Ví dụ, chúng ta có thể quan sát thấy trẻ em nhập cư dễ dàng bắt chước được giọng bản ngữ hơn là bố mẹ chúng. Người lớn khi học ngôn ngữ hai thường để lại dấu ấn tiếng mẹ đẻ trong cách phát âm và dùng ngữ điệu (accent). Trẻ em thường ít gặp phải vấn đề này hơn. Giai đoạn này hoàn thiện khi chức năng ngôn ngữ được khu biệt về bán cầu não trái (khoảng 6 tuổi).

Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây không cho rằng có sự đóng lại đột ngột của giai đoạn này. Nói cách khác, khả năng học ngôn ngữ không đột ngột biến mất sau 6 tuổi mà nó giảm từ từ). Đây là quan điểm của những nhà ngôn ngữ như Chomsky, người cho rằng việc học ngôn ngữ có tính sinh học và diễn ra theo trình tự tự nhiên. Có nghĩa là mọi em bé đều có khả năng học bất cứ ngôn ngữ nào mà các em được tiếp xúc thường xuyên từ khi ra đời. Một em bé Việt Nam sinh ra và lớn lên ở Mỹ có thể học tiếng Anh ở mức độ thuần thục như người Mỹ. Đây là một đoạn video mà mình hay cho sinh viên xem: http://www.youtube.com/watch?v=ZZOPI7DzfUY

Em bé này có khả năng rất đặc biệt. Em nói được rất nhiều ngôn ngữ, tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Trung Quốc, tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ả Rập, vv. Tất nhiên đây là trường hợp rất đặc biệt và em bé này rất có năng khiếu (không phải ai cũng có năng khiếu này). Năng khiếu của em đã được kích hoạt khi được tiếp xúc với những ngôn ngữ này từ rất sớm. Theo báo chí thì bố em là bác sỹ và bệnh nhân của ông nói các ngôn ngữ khác nhau. Em bé thường đến chỗ làm việc của bố và chơi với các bệnh nhân, từ đó học nói các ngôn ngữ khác nhau.

Trong môi trường song ngữ/ đa ngữ, việc trẻ em có thể nói được nhiều ngôn ngữ khác nhau mà không nhầm lẫn là điều hết sức bình thường (tuy có những trường hợp mới đầu các bé có thể học nói chậm hơn các bé đơn ngữ vì não của các bé còn phải phân biệt các ngôn ngữ khác nhau trước khi có thể sắp xếp chúng vào những “ngăn” khác nhau và bắt đầu sử dụng). Trẻ em song ngữ/ đa ngữ có thể chuyển đổi giữa các ngôn ngữ một cách hoàn toàn tự động và dễ dàng.

Những điều mà bài báo trên Tuổi Trẻ Online nói đều đúng. Tuy nhiên, chúng ta cần nhớ rằng đó chỉ là trường hợp của những em bé học ngôn ngữ trong môi trường tiếng. Ví dụ như Singapore, nơi sử dụng 4 ngôn ngữ chính thức và sử dụng tiếng Anh trong giáo dục, hành chính, nhà nước. Các em bé Singapore sinh ra trong môi trường bố mẹ nói tiếng Anh và tiếng dân tộc (ethnic language) thường xuyên ở nhà được coi là có hai ngôn ngữ mẹ đẻ. Việc học ngôn ngữ của các em vì thế được hỗ trợ rất nhiều: ở nhà, ở trường, ngoài xã hội, các em luôn có cơ hội để nghe và sử dụng các ngôn ngữ đó. Do đó việc học mới trở nên dễ dàng.

Nhưng ngay cả khi có môi trường như thế thì việc có thể sử dụng hai ngôn ngữ giỏi như nhau trong mọi lĩnh vực của cuộc sống (balanced bilinguals) cũng rất khó đạt được. Trên thực tế, những người như vậy trên thế giới rất hiếm. Bởi đơn giản là rất hiếm người có được điều kiện sử dụng cả hai ngôn ngữ một cách thường xuyên như nhau ở tất cả các lĩnh vực sử dụng.

Thường thì một ngôn ngữ sẽ được dùng ở nhà (ví dụ tiếng Việt đối với trẻ em người Việt nhập cư ở các nước nói tiếng Anh), và một ngôn ngữ được sử dụng trong giáo dục và giao tiếp xã hội (ví dụ tiếng Anh đối với những em bé nhập cư này). Do đó, khi lớn lên các em có thể đạt được mức độ thuần thục khi giao tiếp bằng tiếng Việt trong các tình huống quen thuộc nhưng chưa chắc đã có thể sử dụng tiếng Việt thuần thục trong giáo dục (ví dụ viết văn bằng tiếng Việt hay diễn thuyết về một đề tài chuyên môn bằng tiếng Việt).

Tuy nhiên, dù thế nào thì đối với những em bé sống trong xã hội song/ đa ngữ như kể trên, việc học các ngôn ngữ khác nhau là việc diễn ra hết sức tự nhiên do đòi hỏi tự nhiên của môi trường (cần học để giao tiếp trong gia đình và ngoài xã hội). Điều này hoàn toàn khác với việc học tiếng Anh của trẻ em Việt Nam ở Việt Nam, nơi mà ngôn ngữ duy nhất chúng ta cần cho giao tiếp trong gia đình lẫn ngoài xã hội là tiếng mẹ đẻ. Và ngôn ngữ duy nhất chúng ta tiếp xúc thường xuyên từ khi lọt lòng cũng là tiếng mẹ đẻ.

Vậy vấn đề đặt ra là ở Việt Nam có cần và có nên cho con học tiếng Anh từ khi mới lọt lòng hay không? Hay là khi nào thì nên bắt đầu cho con học tiếng Anh và học ở mức độ nào là vừa phải?

Mình nhớ hôm trước có đọc được một bài báo nói về một cô MC truyền hình nào đó ở Việt Nam. Cô này khoe rằng ở nhà chỉ nói tiếng Anh với con, mặc dù em bé này mới lọt lòng mẹ. Mình thấy hết sức là buồn cười vì điều này rất phi tự nhiên. Ngoài ra mình thấy lo lắng cho sự phát triển ngôn ngữ lẫn tâm lý của đứa bé.

Vốn liếng tiếng Nhật không đủ để cho phép cô sử dụng ngôn ngữ một cách tinh tế để thể hiện tình cảm của người mẹ với con như các bà mẹ người Nhật khác. Cô không biết cách sử dụng ngôn ngữ quyền lực khi kỷ luật con. Có những giá trị văn hóa mâu thuẫn trong hai ngôn ngữ mà cô không biết xử lý thế nào. Ví dụ tiếng Nhật phân biệt giới tính rõ rệt trong khi là một người phương Tây cô tin vào bình đẳng giới. Nhưng khi sử dụng tiếng Nhật thì cô phải dùng ngôn ngữ chuẩn theo cách người Nhật, trong khi cô lại không muốn xây dựng hình ảnh một người mẹ như vậy trong mắt các con. Có những giá trị văn hóa phương Tây cô không thể dạy cho các con nếu truyền tải bằng ngôn ngữ tiếng Nhật.

Và cô cảm thấy mình đánh mất sự liên kết với các con.

Đó chỉ là một ví dụ trong muôn vàn ví dụ về sự khó khăn khi phải dạy con bằng ngôn ngữ mình không thuần thục.

Một ví dụ khác mà mình thấy khá điển hình trong các gia đình nhập cư, đó là việc bố mẹ và con cái gặp khó khăn trong giao tiếp, dẫn đến hậu quả là đứa trẻ tự co mình khi ở nhà và chỉ trở nên vui vẻ khi được hòa nhập với các bạn ở trường. Một chị bạn mình kể lại rằng con trai của bạn chị ấy sinh ra và lớn lên ở Úc. Như các bố mẹ nhập cư khác, bố mẹ ép cháu phải nói tiếng Việt ở nhà để giữ được “ngôn ngữ thừa kế”.

Chị kể lại rằng mỗi khi ở nhà, cháu bé rất ít nói vì tuy cháu có thể hiểu tiếng Việt, cháu không thể diễn đạt một cách thoải mái những câu phức tạp trong ngôn ngữ này. Chỉ đến khi chị bắt đầu nói chuyện với cháu bằng tiếng Anh thì cháu mới hoạt bát trở lại và “như biến thành một con người khác hoàn toàn” (nguyên văn lời chị kể).

Trở lại trường hợp cô MC nói trên, rất có thể cô ây sẽ gặp phải một trong những rắc rối mà mình vừa kể. Việc cô ấy ép buộc em bé phải nghe và nói tiếng Anh rất giống với việc cha mẹ nhập cư bắt con giao tiếp với mình bằng tiếng mẹ đẻ, thứ ngôn ngữ mà đứa trẻ kém thông thạo hơn (1). (Tuy nhiên, trường hợp thứ hai còn có lý do chính đáng, chứ mình không thấy có lý do chính đáng nào để bắt một em bé Việt Nam sống ở Việt Nam phải nói chuyện với cha mẹ bằng tiếng Anh cả).

Em bé của cô ấy rất có thể cũng sẽ phản ứng như đứa bé trong câu chuyện trên. Đó là mình còn chưa nói việc cô ấy tước đoạt cơ hội học tiếng mẹ đẻ của em bé trong giai đoạn tối quan trọng của cuộc đời em bé còn có thể dẫn đến việc em bé không thể phát triển ngôn ngữ mẹ đẻ một cách hoàn thiện khi lớn lên. Điều đó mới là nguy hiểm.

Ngoài ra, mình không biết khả năng tiếng Anh của cô MC này thế nào. Nếu tiếng Anh của cô ấy không chuẩn thì kết quả sẽ càng tồi tệ. Nên nhớ rằng, một đứa trẻ lớn lên trong môi trường song ngữ còn có tiếp xúc ngôn ngữ chuẩn ở nhà trường và ngoài xã hội để bù đắp cho sự thiếu hụt từ cha mẹ. Chứ một em bé lớn lên ở VN thì không có điều kiện ấy. Cuối cùng, để kết thúc note này, mình trở lại với câu hỏi vậy có nên dạy trẻ em tiếng Anh quá sớm không? Câu trả lời là “Để làm gì?”

Trẻ em Việt Nam lớn lên ở Việt Nam không có điều kiện tự nhiên như trẻ em lớn lên trong môi trường song/ đa ngữ, cho nên không có gì đảm bảo rằng những lợi ích của việc học hai ngôn ngữ từ sớm như bài báo trên kia đề cập có thể áp dụng cho trẻ em Việt Nam ở Việt Nam.

Trong trường hợp xấu, tâm lý và tính cách của đứa trẻ còn có thể bị ảnh hưởng như đã nói. Ngoài ra, khả năng nhận thức được phát triển tốt nhất thông qua ngôn ngữ mà đứa trẻ thành thạo nhất.

Mình cho rằng nhiệm vụ đầu tiên của mỗi đứa trẻ Việt Nam sống ở Việt Nam là nắm cho vững ngôn ngữ mẹ đẻ. Không nắm vững ngôn ngữ mẹ đẻ sẽ là một thiệt thòi khi đi học, bởi ở trường, các kỹ năng và môn học được dạy bằng tiếng Việt. Và các giao tiếp xã hội đều cần tiếng Việt.

Trừ khi bạn có có dự tính cho con học trường Tây từ mẫu giáo và lớn lên thì sang hẳn Tây sinh sống thì mới nên dạy tiếng Anh cho bé song song với việc dạy tiếng Việt. Nhưng nhớ rằng không có gì đảm bảo là con bạn sẽ học được cả hai ngôn ngữ 1 cách thuần thục, trừ khi bạn xây dựng một môi trường nhân tạo để con bạn có động cơ và điều kiện tiếp xúc với đầu vào ngôn ngữ chuẩn trong cả hai ngôn ngữ và sử dụng cả hai ngôn ngữ với tần suất sử dụng gần như nhau.

Còn nếu không thì không để làm gì cả. Đợi bé lớn lên, học tiếng Anh cũng chưa muộn.

Ghi chú:

(1) Ở những gia đình mà cha mẹ đầu tư để dạy con nắm vững ngôn ngữ thừa kế thì vấn đề này sẽ ít có khả năng xảy ra hơn.

[/like-and-read]

Comments

Cuộc Sống Du Học Ở Hàn Quốc Như Thế Nào ?

Cuộc sống du học ở Hàn Quốc như thế nào ?

Cuộc sống ở hàn quốc không dễ dàng như phim Hàn Quốc

1. Trường học, ký túc xá

Từ lâu, Hàn Quốc đã coi giáo dục là mục đích lớn nhất cho việc đào tạo nhân tài. Tất cả các bạn du học sinh Việt Nam tại Hàn đều miêu tả trường đại học của mình bằng hai tính từ: rộng và đẹp, một số bạn còn ví trường giống như “thiên đường ở mặt đất”, có thể kể tới một số trường như: Kyung Hee, Seoul, Yonsei, Sejong. Cơ sở hạ tầng hiện đại, tiên tiến tạo điều kiện tốt nhất cho học sinh, sinh viên nghiên cứu và học tập. Hầu hết các trường đều có khuôn viện rộng, phòng học đầy đủ tiện nghi, thư viện, sân vận động, nhà ăn…và khung cảnh đẹp giúp cho các bạn sinh viên có thể học tập tốt hơn.

Thông thường các trường Đại học ở Hàn Quốc đều có ký túc xá dành cho sinh viên, thuận tiện cho việc sinh hoạt và học tập. Ở ký túc xá sẽ giúp bạn tiết kiệm được một khoản chi phí hơn so với ở nhà thuê bên ngoài. Phòng ký túc xá bao gồm đầy đủ tiện nghi, sạch sẽ và đẹp, nhà vệ sinh riêng; ngoài ra còn có phòng sinh hoạt tập thể, bếp ăn chung. Hai hoặc ba sinh viên ở cùng một phòng và đến từ các nước khác nhau, ngôn ngữ giao tiếp chủ yếu là tiếng Hàn hoặc tiếng Anh.

2. Sinh hoạt ở Hàn Quốc

Đời sống sinh hoạt ở Hàn khá cao, giá cả khá đắt nhưng đổi lại cơ sở vật chất và dịch vụ rất tốt. Giao thông đi lại thuận tiện, phương tiện chủ yếu của người dân Hàn Quốc là xe buýt hoặc tàu điện ngầm. Đối với các bạn du học sinh Việt Nam chưa từng trải nghiệm đi tàu điện ngầm thì sẽ mất khoảng vài ngày để làm quen với nó. Xe buýt ở Hàn Quốc rất sạch sẽ và an toàn, và không có chuyện chen lấn hay mất đồ như ở Việt Nam. Bạn có thể dễ dàng đi lại bởi trên mỗi biển báo đều có hướng dẫn chi tiết về các tuyến đường.

Chi phí cho một học kỳ ở Ký túc xá khoảng 200 – 250 USD (bao gồm cả tiền ăn và ở) tùy thuộc vào mùa và giá cả sinh hoạt tại mỗi thành phố. Nếu bạn thuê nhà ở ngoài thì sẽ tốn chi phí hơn, và điều kiện đi lại, sinh hoạt cũng khó khăn hơn so với ở trong ký túc xá rất nhiều.

Chi phí ăn uống ở bên Hàn cũng tương đối đắt đỏ, giá một bữa ăn bình dân khoảng 2-5 USD. Vì giá một bữa ăn cao như vậy và món ăn không hợp khẩu vị đối với nhiều sinh viên Việt Nam nên các bạn thường tự đi chợ nấu ăn sẽ vừa hợp khẩu vị vừa tiết kiệm được chi phí.

3. Học tập và thi cử

Việc học tập ở Hàn rất được quan tâm, các học sinh và sinh viên luôn phải tập trung cao. Nếu như bạn không đến thi thì bạn sẽ không qua được kỳ thi kiểm tra và phải tốn chi phí học lại.

Tùy từng trường sẽ có chế độ thi cử và thời gian biểu khác nhau. Hầu hết giờ học bắt đầu từ 9h sáng và giờ kết thúc là 6h chiều. Mỗi năm thường có hai kỳ chính, xen kẽ vào đó là kỳ nghỉ đông và kỳ nghỉ hè. Các trường Hàn Quốc rất nghiêm ngặt trong việc đánh giá điểm chuyên cần do đó bạn cần phải đi học đầy đủ và đúng giờ.

Phần lớn các trường đại học Hàn Quốc đều giảng dạy bằng tiếng Hàn vì thế các bạn cần phải có một nền tảng tiếng Hàn trước khi sang Hàn Quốc. Nếu chưa tự tin bạn có thể tham gia học một khóa về ngôn ngữ Hàn tại Hàn Quốc trước khi bắt đầu học chuyên ngành chính.

4. Việc đi làm thêm

Do chi phí sinh hoạt ở Hàn khá cao nên việc đi làm thêm ngoài giờ đối với du học sinh là điều thiết yếu. Sau khi học ở Hàn được 6 tháng bạn sẽ được phép đi làm thêm từ 20h đến 28h/tuần vào thời gian học và làm cả ngày trong kỳ nghỉ. Khi mới đầu qua đó, bạn không nên vội vã đi làm thêm ngay, hãy tập dần thích nghi với cuộc sống mới và ngôn ngữ Hàn, và khi bạn thông thạo tiếng thì việc xin làm thêm sẽ trở nên dễ dàng hơn nhiều.

Tùy từng công việc và năng lực của mỗi người mà thu nhập từ việc làm thêm sẽ khác nhau. Bạn có thể làm các công việc như: phục vụ trong nhà hàng ăn, làm việc tại những xưởng may, phụ bàn, lễ tân…và nếu trình độ tiếng Hàn hoặc tiếng Anh của bạn tốt, bạn có thể làm công việc phiên dịch, thông dịch hoặc dạy tiếng Việt cho người bản địa. Trung bình một tháng làm thêm bạn có thể kiếm được từ 800 – 1200 USD/tháng tùy ngành nghề và năng lực của bạn. Bởi vậy, ngoài thời gian đảm bảo cho việc học tập, bạn có thể kiếm việc làm thêm cho mình, vừa trải nghiệm được cuộc sống vừa đủ tiền trang trải các chi phí sinh hoạt.