Top 13 # Học Tiếng Dân Tộc Châu Mạ Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Lienminhchienthan.com

Phong Tục Văn Hóa Dân Tộc Mạ

(VOV5) -Cũng như nhiều dân tộc khác, ngày nay do nhiều lý do khách quan và chủ quan, một số phong tục văn hóa truyền thống của bà con có phần bị mai một.

Trong cộng đồng 54 dân tộc Việt nam, đồng bào Mạ là dân tộc thiểu số  với dân số khoảng trên 40 nghìn người, cư trú ở 34 tình thành phố trong cả nước, song phần lớn cư trú tại các tỉnh Lâm Đồng, Đồng Nai. Từ bao đời nay, người Mạ sống chủ yếu làm nương rẫy, vì vậy đồng bào còn giữ được nhiều phong tục tập quán tín ngưỡng văn hóa mang đậm dấu ấn của dân tộc mình.   

Cũng giống như các tộc người sinh sống ở cao nguyên Tây Nguyên hùng vĩ, người Mạ sinh sống tập trung theo từng làng gọi là Bon. Trước đây, mỗi Bon có từ 5-10 nhà sàn dài, là nơi cứ trú của gia đình lớn hay nhiều gia đình nhỏ có cùng quan hệ huyết thống. Mỗi gia đình đều có kho lúa và bếp ăn riêng. Tuy nhiên cuộc sống ngày nay đã có nhiều thay đổi , những ngôi nhà sàn dài không còn nhiều mà thay vào đó là những ngôi nhà sàn ngắn dành cho các gia đình nhỏ. Cũng như các  dân tộc ở Tây Nguyên, người Mạ có nét bản sắc  riêng, thể hiện trước hết ở các bộ trang phục truyền thống dệt bằng vải thổ cẩm.

 Người Mạ còn có một thể loại văn học truyền miệng là những truyện rừng- Ảnh: Báo Dân tộc miền núi

Theo phong tục truyền thống, những cô gái Mạ lên 9, lên 10 tuổi đã được Bà, Mẹ truyền nghề, dạy cách dệt thổ cẩm. Để dệt nên tấm thổ cẩm đẹp mắt, người Mạ phải thực hiện rất nhiều công đoạn, từ trồng bông, xe sợi, nhuộm màu, lên khung rồi mới ngồi vào dệt. Chỉ với một bộ khung gồm nhiều thanh gỗ và tre đơn sơ, gọn nhẹ nhưng người Mạ đã tạo nên những tấm thổ cẩm với những đường nét hoa văn sinh động, màu sắc bắt mắt. Trên tấm thổ cẩm, bà con thường chọn dệt những hình thù đặc trưng của đồng bào như: cây cối, chim, muông thú, nhà sàn, cây nêu… Ngày nay, dù chỉ màu công nghiệp đã trở nên phổ biến nhưng bà con vẫn giữ cách trồng bông, xe sợi, nhuộm màu và dệt hoa văn truyền thống của ông, bà để lại.

Chị Ka Thoa, dân tộc Mạ ở Bon  Đạ Nghịch, xã Lộc Châu, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng, cho biết: “Lên lớp 4 em đã được mẹ truyền lại nghề dệt thổ cẩm. Bây giờ hầu như đã biết hết rồi, còn những cái công phu thì phải học hỏi thêm từ những người cao tuổi, những người già làng. Bởi vì dệt thổ cẩm, nghề truyền thống thì mình không thể bỏ, phải bảo tồn nghề của ông bà và giữ lại nét văn hóa của cha ông.”

Trang phục và Cồng chiêng của người Mạ ở huyện Bảo Lâm tham gia biểu diễn nhiều nơi.-Ảnh Dulich.vn

Sự đa dạng về màu sắc, phong phú về hoa văn đã tạo nên nét đặc sắc trong trang phục thổ cẩm của đồng bào Mạ. Đó cũng là nét đẹp riêng có của thổ cẩm Mạ so với thổ cẩm của đồng bào các dân tộc khác trong cả nước.

Ông Nguyễn Đắc Lộc nhà nghiên cứ văn hóa dân tộc ở tỉnh Lâm Đồng cho biết: “Lễ vật gồm các con dê, gà, vịt và các ché rượu cần. Theo quan niệm của người Mạ : dê là đại diện cho rừng thiêng, vịt đại diện cho nước và gà đại diện cho cuộc sống thường nhật, vì thế 3 lễ vật này không thể thiếu trong lễ cúng.”

Cộng đồng người Mạ có vốn văn học nghệ thuật dân gian khá phong phú gồm nhiều truyền thuyết, truyện cổ và những bài dân ca trữ tình gọi là “tam bớt”.

Nhạc cụ truyền thống là bộ chiêng đồng 6 chiếc không núm. Khi hoà tấu có trống bịt da trâu đánh giáo đầu, giữ nhịp và đổ hồi trước khi kết thúc. Con trai Mạ thường thổi khèn bầu, sáo trúc, tù và bằng sừng trâu.Những sinh hoạt văn hóa văn nghệ thông qua những nhạc cụ độc đáo như: chiêng, trống, khèn bầu…trong đó nghệ thuật đánh cồng chiêng có ý nghĩa đặc biệt trong đời sống tinh thần của bà con, theo quan niệm của người Mạ xưa, các chiêng cũng có đời sống tinh thần như con người  có luc vui, lúc buồn,,,giống như con người,

Cũng như nhiều dân tộc khác, ngày nay do nhiều lý do khách quan và chủ quan, một số phong tục văn hóa truyền thống của bà con có phần bị mai một. Trước đây, bà con theo tín ngưỡng đa thần nên thường có nhiều lễ nghi theo thời vụ, vòng đời con người. Hiện nay, nhiều hộ không theo tín ngưỡng đa thần nữa nên có rất nhiều nghi lễ, lễ hội mất dần.

Những năm gần đây, được sự giúp đỡ của ngành văn hóa các tỉnh nà con người Mạ cũng đã chú trọng vào việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, nhất là các lễ nghi và nghề truyền thống. Tại các tỉnh có đồng bào Mạ sinh sống, với việc thực hiện đề án “Bảo tồn lễ hội, hoa văn, cồng chiêng và nhạc cụ các dân tộc tại chỗ” nhiều phong tục văn hóa tốt đẹp của bà con đã được quan tâm, bảo tồn bền vững.

Dạy Tiếng Dân Tộc Cho Học Sinh Người Dân Tộc

Điện Biên TV – Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc trong đó khuyến khích thế hệ trẻ trong đồng bào các dân tộc thiểu số học tập, hiểu biết và sử dụng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình là một trong những yếu tố góp phần giữ gìn, bảo tồn, củng cố và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc. Tại huyện Tuần Giáo chương trình dạy tiếng Thái, tiếng Mông cho học sinh đã được triển khai tại 15 trường tiểu học và trung học cơ sở.

Lớp học dạy tiếng Thái cho học sinh tại huyện Tuần Giáo.

Năm 2011, trường PTDTBT Tiểu học Ta Ma là một trong những đơn vị trường học đầu tiên triển khai dạy tiếng Mông theo Đề án dạy tiếng Thái, tiếng Mông cho học sinh tiểu học và trung học cơ sở giai đoạn 2011 – 2020.  Chương trình được triển khai từ lớp 3 đến lớp 5, học sinh đã tương đối thuần tiếng phổ thông nên việc nắm bắt kiến thức tiếng Mông khá thuận lợi.

Tuy nhiên, theo thầy giáo Nguyễn Phúc Đồng, Hiệu trưởng nhà trường, cho biết việc dạy tiếng dân tộc cũng gặp một số khó khăn. ĐÓ là nội dung kiến thức còn hơi nặng với học sinh khối lớp 3 bởi một số phần học sinh hơi khó nhớ và khó hiểu. Do vậy, đề nghị trong thời gian tới Đề án nên giảm tải bớt chương trình cho khối lớp 3.

Chủ động truyền dạy tiếng dân tộc cho học sinh, đội ngũ giáo viên là người dân tộc Thái, dân tộc Mông đã sáng tạo, linh hoạt làm đồ dùng dạy học và sử dụng phù hợp với đặc thù và vùng miền nhằm nâng cao chất lượng truyền thu tiếng dân tộc. Đồng thời lựa chọn lồng ghép giới thiệu văn hóa, phong tục tập quán, các trò chơi dân gian,… của các dân tộc thông qua các chương trình chính khóa, ngoại khóa, các hoạt động tập thể.

Khuyến khích thế hệ trẻ trong đồng bào các dân tộc thiểu số học tập, hiểu biết và sử dụng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình là một trong những yếu tố góp phần giữ gìn, bảo tồn, củng cố và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc.

Ông Đỗ Văn Sơn, Trưởng phòng GD&ĐT huyện Tuần Giáo, cho biết: Năm học 2011 – 2012, khi bắt đầu triển khai Đề án dạy tiếng Thái, tiếng Mông cho học sinh tiểu học và trung học cơ sở giai đoạn 2011 – 2020, huyện Tuần Giáo chỉ có có 2 trường, 4 lớp và 85 học sinh học tiếng Thái; 1 trường, 2 lớp và 48 học sinh học tiếng Mông. Đến nay, sau gần 10 năm triển khai thực hiện Đề án quy mô trường, lớp, học sinh học tiếng dân tộc trên địa bàn huyện Tuần Giáo được mở rộng theo từng năm.

Tiếp tục gìn giữ, phát huy giá trị ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc, huyện Tuần Giáo  đang vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức dạy học môn tiếng Việt vào dạy tiếng dân tộc; ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy; xây dựng đội ngũ quản lý viên chức quản lý chỉ đạo dạy tiếng dân tộc có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, hiểu biết tiếng, chữ viết và văn hóa dân tộc… theo tinh thần Nghị quyết số 03/NQ-TW về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc./.

Việt Hòa/DIENBIENTV.VN  

Đảng Viên Người Dân Tộc Dao Dân Vận Khéo

Gần 30 năm tuổi Đảng, với vai trò là cầu nối giữa Đảng ủy, chính quyền xã Phú Thịnh và người dân trên địa bàn, trong các cuộc họp chi bộ thôn, ông Dau luôn phổ biến tới đồng bào chủ trương, chính sách mới của Đảng, Nhà nước. Ông Dau chia sẻ, sau mỗi lần được tham gia các lớp tập huấn công tác Đảng hay đi học tập những mô hình phát triển kinh tế hiệu quả trong tỉnh do xã tổ chức, ông đều đem kiến thức, kinh nghiệm về chia sẻ cùng nhân dân toàn thôn.

Ông Lý Văn Dau thân thiện trong mắt bà con thôn Nghẹt.

Ảnh: Nam Sương – TTXVN

Là Trưởng thôn, ông Dau luôn gương mẫu, đi đầu trong phát triển kinh tế. Gia đình ông có 7 ha đất rừng (trong đó 3 ha đất rừng sản xuất, 4 ha rừng phòng hộ), thu hoạch từ trồng rừng mỗi năm đạt gần 200 triệu đồng. Ông Dau cũng vận động các hộ tăng gia sản xuất, chú trọng trồng rừng, phát triển kinh tế, góp phần tích cực vào công tác giảm nghèo của thôn. Thôn Nghẹt hiện có hơn 400 ha rừng, trong đó 280 ha rừng sản xuất. Toàn thôn có 113 hộ, 100% là đồng bào Dao (quần trắng). Đầu năm 2019, số hộ nghèo của thôn là 52 hộ (chiếm gần 50%); nhờ tích cực thực hiện chính sách chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế nông nghiệp sang trồng rừng, đến cuối tháng 9, số hộ nghèo giảm xuống còn 21 hộ (chiếm 19%).

Thực hiện công tác dân vận, ông Dau đến từng nhà để tuyên truyền, động viên đồng bào thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Năm 2012, thôn Nghẹt được đầu tư dự án công trình nước sạch, ông Dau đã vận động nhiều gia đình trong thôn hiến hàng trăm mét đất thổ cư và ngày công lao động hỗ trợ dự án. Năm 2018, thực hiện dự án kiên cố hóa kênh mương, ông tiếp tục vận động nhân dân trong thôn hỗ trợ đóng góp ngày công lao động để lắp đặt hơn 400 mét cấu kiện kênh mương.

Ông Lý Văn Thông, ở thôn Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, cho biết sau khi được ông Dau phổ biến về dự án nước sạch của thôn sẽ đi qua nhà mình, ông đã tình nguyện hiến hơn 30 mét vuông đất vườn thổ cư cho dự án. Cũng nhờ sự vận động, tuyên truyền của ông Dau, ông Thông đã tham gia nhận giao rừng với hơn 8 ha (3 ha rừng sản xuất, 5 ha rừng phòng hộ). Hiện nay, gia đình ông Thông không chỉ thoát nghèo mà còn đầu tư chuồng trại để nuôi lợn. Ngoài tiền thu hoạch rừng (trên 100 triệu đồng/năm), đàn lợn hơn 10 con của gia đình ông cũng bắt đầu có lãi.

Không chỉ là một Bí thư, Trưởng thôn gương mẫu, ông Dau cùng những người cao tuổi trong thôn luôn tích cực giáo dục thế hệ trẻ giữ gìn bản sắc văn hóa, trang phục, tiếng nói, phong tục tập quán truyền thống của dân tộc Dao. Các tiết mục văn nghệ của đồng bào Dao (quần trắng) thôn Nghẹt luôn được xã Phú Thịnh lựa chọn tham gia giao lưu với các xã, huyện khác trong tỉnh Tuyên Quang.

Ông Dau (trái) thân thiện trong mắt bà con thôn Nghẹt.

Ông Tạ Xuân Trình, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy xã Phú Thịnh khẳng định, với 100% đồng bào Dao, thuộc diện nghèo của xã, thôn Nghẹt được bố trí Bí thư Chi bộ kiêm Trưởng thôn từ năm 2016. Đảng ủy xã xác định lựa chọn người có uy tín cao nhất của đồng bào trong thôn để bầu giữ chức Bí thư Chi bộ kiêm Trưởng thôn. Ông Lý Văn Dau là đảng viên lâu năm, giàu kinh nghiệm, trong công tác Đảng cũng như vai trò Trưởng thôn, luôn gương mẫu, mẫn cán, tận tình với nhân dân. Việc đưa người có uy tín, kinh nghiệm lên giữ vai trò lãnh đạo, cầu nối giữa chi bộ Đảng cơ sở với Đảng ủy xã là động lực quan trọng không chỉ trong phát triển kinh tế, đảm bảo công tác tuyên truyền, thực hiện tốt mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, mà còn góp phần ổn định dân cư, giữ gìn an ninh trật tự tại địa phương.

Với những cống hiến cho công tác dân vận, luôn gương mẫu đi đầu trong triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước tại địa phương, năm 2018, ông Dau vinh dự được nhận Giấy khen “Dân vận khéo” của huyện Yên Sơn. Tháng 8/2019, ông Dau được địa phương lựa chọn là người có uy tín tiêu biểu của huyện Yên Sơn đi dự Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số tỉnh Tuyên Quang lần thứ III – năm 2019./.

Dân Tộc Học Hay Nhân Học ?

Dân tộc học hay nhân học văn hóa đã trải qua nhiều thăng trầm với những giai đoạn phát triển khác nhau. Thậm chí, nhiều người vẫn xem sự ra đời và phát triển của dân tộc học gắn liền với quá trình bành trướng của chủ nghĩa thực dân châu Âu. Nói chung, dưới thời thực dân, các nhà nghiên cứu thường bị định kiến bởi quan điểm tiến hóa xã hội (social evolution), nhìn các nền văn hoá ngoài châu Âu bằng con mắt xa lạ, ít biến đổi và thấp kém. Mô tả các nền văn hoá ngoài châu Âu đã là hoạt động chủ đạo của nền dân tộc học thời thực dân. Tuy nhiên, kỷ nguyên thực dân chấm dứt cũng đồng thời kết liễu sứ mạng của nền dân tộc học thực dân. Một mặt, các nước sau độc lập không còn nhu cầu để cho người nước ngoài đến “khám phá” văn hoá bản xứ làm cơ sở cho “sứ mạng khai sáng thực dân” như cũ. Thay vào đó, các nước này đã tự đào tạo các nhà khoa học để nghiên cứu văn hóa của chính mình. Trong hoàn cảnh ấy, các nhà dân tộc học thực dân đã “quay về” ngôi nhà của mình, và họ bắt đầu khám phá ra rằng có một thế giới khác cần nghiên cứu thay vì đi đến các nền văn hoá xa lạ ngoài châu Âu. Có thể nói nửa sau thế kỷ 20 đã chứng kiến một trào lưu nghiên cứu mới trong dân tộc học – nhân học, trong đó các nghiên cứu tập trung vào việc khám phá các xã hội nông dân và đô thị. Văn hóa nông dân, văn hoá thị dân, các trào lưu di dân và đô thị hoá, thế giới đời sống của các nhóm dân cư và giai tầng khác nhau trong xã hội đô thị và công nghiệp, v.v. đã thổi bùng lên niềm đam mê mới. Trong khi khám phá ra cả một chân trời mới để nghiên cứu, các nhà dân tộc học vẫn sử dụng một phương pháp đã trở thành kinh điển của họ là điền dã dân tộc. Họ vẫn bắt đầu công việc của mình bằng cách đi vào các cộng đồng được nghiên cứu (bất kể là nông thôn hay đô thị), ở lại đó trong một khoảng thời gian đủ lâu để hiểu được văn hoá, ngôn ngữ và các kỹ thuật địa phương, quan sát và phân tích chúng. Một mặt, để quên đi cái nhãn hiệu gắn liền với chủ nghĩa thực dân, và mặt khác, để mở rộng hơn nữa các quan tâm khoa học của mình, tên gọi “nhân loại học” giờ đây xem ra có vẻ nhân bản và dễ được chấp nhận hơn. Mặc dù nhiều lĩnh vực nghiên cứu mới được mở ra, và thậm chí là tên gọi mới được ưa thích hơn thì cái cốt lõi của nhân học văn hoá – xã hội hiện đại vẫn là phương pháp nghiên cứu dựa vào điền dã, mô tả và phân tích dân tộc học (fieldwork, ethnography và ethnology) và quan sát tham gia vẫn được sử dụng như một phương pháp điển hình của khoa học này mặc dù ngày nay, những kỹ năng và kỹ thuật thu thập thông tin mới cho các phân tích nhân học đang ngày càng được bổ xung và hoàn thiện hơn1. Cũng giống như ở Trung Quốc, Liên Xô và các nước Đông Âu xã hội chủ nghĩa trước đây, ở Việt Nam không có ngành khoa học có tên gọi nhân loại học (anthropology) chung2. Thay vào đó, ở Việt Nam cũng có xu hướng phát triển “các khoa học nhân loại học” (anthropological sciences) một cách riêng rẽ. Ngoài những phân ngành như ngôn ngữ học, khảo cổ học, nhân học hình thái người, cổ nhân loại học, nhân học văn hoá – xã hội thì các môn văn hoá học, văn hoá dân gian và tôn giáo học cũng có thể xếp vào ‘các khoa học nhân loại học’. Dân tộc học ở Việt Nam được xem là tương ứng với lĩnh vực nhân loại học văn hoá – xã hội, mặc dù có ý kiến cho rằng dân tộc học chỉ nhằm vào việc mô tả văn hoá các tộc người và do đó, có thể được xem là một giai đoạn thấp của nhân loại học.

Thực ra, xu thế và yêu cầu đổi mới trong nghiên cứu và đào tạo dân tộc học ở Việt Nam những năm qua sang hướng tiếp cận nhân loại học không phải là một ngoại lệ mà nó nằm trong một xu thế phổ biến ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa cũ bao gồm Nga và các nước Đông Âu. Đặc biệt, từ khi Trung Quốc bước vào thời kỳ cải cách xã hội cuối những năm 1970, người ta thấy nhiều trường đại học ở Nam Trung Quốc đã đi tiên phong trong việc đổi mới dân tộc học sang hướng tiếp cận nhân loại học.3

Cũng giống như Việt Nam, trước khi giành được độc lập dân tộc, nhiều trường đại học ở Trung Quốc như Nakai University of Tianjin hay Academia Sinica Bắc Kinh đã có bộ môn nhân học theo mô hình phương Tây. Khi Trung Quốc bắt đầu đổi mới nền kinh tế 1978, người ta thấy các bộ môn nhân loại học (releixue) lần lượt ra đời ở các trường đại học lớn như Trung Sơn (Zhongshan) ở Quảng Châu năm 1980, Đại học Hạ Môn (Xiamen) ở Phúc Kiến năm 1984, và Đại học Vân Nam (Yunnan) năm 1994. Đáng lưu ý là những trường đại học đi tiên phong trong việc xây dựng ngành nhân loại học theo mô hình Âu – Mỹ chủ yếu bắt đầu từ miền Nam Trung Quốc, nơi những năng động kinh tế – xã hội đang thổi bùng lên ngọn lửa cải cách kinh tế và xã hội ở Trung Quốc đại lục. Tại các trường đại học trên, chương trình giảng dạy cho sinh viên chuyên ngành nhân loại học hoàn toàn tương đương như ở các bộ môn nhân loại học Mỹ và phương Tây với bốn lĩnh vực là nhân học ngôn ngữ, nhân học văn hoá, nhân học hình thái người và khảo cổ học. Gần đây, bộ môn nhân học ứng dụng bắt đầu được giảng dạy trong đó tập trung vào tình trạng đói nghèo ở khu vực nông thôn và thành thị. Năm 1986, Đại học Trung Sơn đã lần đầu tiên cấp bằng tiến sỹ nhân học theo mô hình đào tạo mới. Cho đến nay, ngoài các trường đại học nói trên, các viện nghiên cứu ở Trung Quốc cũng có xu hướng đổi sang nhân học văn hoá như Viện Xã hội học và Nhân học (Institute of Sociology & Anthropology (2000) ở Đại học Bắc Kinh; Viện Dân tộc học và Nhân học (Institute of Ethnology & Anthropology (2002) thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc (CASS), Bắc Kinh; Trung tâm Nghiên cứu Nhân học Văn hoá – Xã hội (Research Centre for Socio-Cultural Anthropology (1994) thuộc Học viện Dân tộc Trung ương Bắc Kinh; Viện Nhân học Văn hoá (Institute of Cultural Anthropology (1999) thuộc Đại học Thanh Hoa, Bắc Kinh, v.v.

Lý giải nguyên nhân về sự cần thiết phải đổi mới nghiên cứu dân tộc học và xác lập tiếp cận nhân học ở Trung Quốc, GS Liang Zhaotao ở ĐH Trung Sơn, Quảng Châu, người đã phát động cuộc đấu tranh để xác lập ngành nhân học ở Trung Quốc từ năm 1978 đến nay đã chỉ rõ: “Tất cả các nước trên thế giới đều có môn khoa học này (releixue), tại sao chúng ta lại không có? Chúng ta có một nền văn hoá sáng lạn, và một dân số lớn. Hãy để cho khoa nhân loại học đóng góp vào công cuộc bốn hiện đại hoá của chúng ta” (Guldin 1994:12).

Do nhận thức được tầm quan trọng và vai trò to lớn của nhân học văn hoá xã hội, Chính phủ Trung Quốc đã chính thức hậu thuẫn sự khôi phục và phát triển của ngành học này bằng cách cho dịch, xuất bản và lưu hành các tài liệu nhân học văn hoá xã hội kinh điển của phương Tây làm tài liệu tham khảo. Chính phủ Trung Quốc cũng thành lập Uỷ ban Quốc gia để xin chính thức đăng cai Đại hội Quốc tế lần thứ 16 của Liên hiệp hội các Khoa học Dân tộc học và Nhân học quốc tế tại Vân Nam vào năm 2009. Đại hội này đã đánh dấu một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên hội nhập khoa học của nhân học văn hoá – xã hội Trung Quốc vào dòng chảy chung của các khoa học nhân học thế giới. Khảo sát các bộ môn nhân học văn hoá và xã hội ở các trường đại học tại các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũ, chúng ta cũng thấy rằng hầu hết các bộ môn hay viện nghiên cứu có tên gọi “cultural/social anthropology” đều mới được lập ra sau năm 1990. Thực ra, thuật ngữ social and cultural anthropology đã được sử dụng rộng rãi ở các nước Trung và Đông Âu từ trước 1990. Tuy nhiên, nhân học văn hoá xã hội cho đến những năm 1990 chỉ được xem là các bài giảng ngoại khoá trong bộ môn dân tộc học mà thôi. Từ sau năm 1990, các nhà dân tộc học đã tự xem mình là các nhà nhân học văn hoá xã hội, trong khi các bộ môn dân tộc học hoặc giải thể để lập ra các bộ môn nhân học văn hoá xã hội hoặc thêm vào tên gọi dân tộc học một thuật ngữ đi kèm là nhân học. Vesna Godina ở trường Đại học Ljublian (Slovenia) đã khảo sát quá trình thể chế hoá các cơ quan nghiên cứu và đào tạo nhân học văn hoá – xã hội ở các nước Đông Âu xã hội chủ nghĩa cũ và cho rằng quá trình xuất hiện của ngành nhân học văn hoá – xã hội ở các nước Liên Xô cũ và Đông Âu chỉ rộ lên từ sau 1990, và theo ba phương thức chủ yếu như sau: 1) Thành lập mới các bộ môn hay viện nghiên cứu về nhân học văn hoá – xã hội; 2) Chuyển hoá các bộ môn hoặc viện dân tộc học thành bộ môn nhân loại học văn hoá xã hội; 3) Vẫn duy trì tên gọi dân tộc học (ethnology) nhưng thêm vào sau đó thuật ngữ nhân học (anthropology).

Vấn đề được đặt ra là tại sao ở các nước nói trên lại hình thành một trào lưu đổi mới dân tộc học hoặc chuyển đổi từ dân tộc học sang nhân học? Rõ ràng những thay đổi về thể chế và những cải cách kinh tế – xã hội ở các nước này thời kỳ hậu chủ nghĩa xã hội đã đặt các khoa học xã hội và nhân văn trước sự lựa chọn sống còn: Đổi mới để phát triển hay duy trì như cũ và mai một. Quá trình hội nhập quốc tế và hiện đại hoá khoa học cũng trở thành một yêu cầu cấp thiết. Tuy nhiên, ngoài các lý do đó ra, cũng có khuynh hướng cho rằng thuật ngữ ethnography, về cơ bản vẫn chỉ có ý nghĩa là một khoa học mô tả văn hoá tộc người mà thôi, tức là ở giai đoạn thấp hơn của nghiên cứu nhân học. Mặt khác, tên gọi dân tộc học thường gợi lại không chỉ mối liên hệ của nó với chủ nghĩa thực dân mà còn với cả truyền thống xã hội chủ nghĩa cũ. Thay đổi khái niệm dân tộc học sang nhân học văn hoá-xã hội cũng có ngụ ý bày tỏ mong muốn đoạn tuyệt với các truyền thống cũ. Thay đổi từ dân tộc học sang nhân học do đó được xem là một giải pháp khả dĩ đáp ứng cả yêu cầu đổi mới khoa học, hội nhập quốc tế, và những thay đổi chính trị trong khoa học. ——- *PGS. TS, Chủ nhiệm Bộ môn Nhân học phát triển, Khoa Nhân học, trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia HN. 1 Đây là cơ sở để Từ điển về các khoa học nhân văn định nghĩa rằng “nhân loại học là môn học sử dụng tư liệu dân tộc học để khám phá các nguyên tắc của tổ chức xã hội, của chính chúng ta, cũng như của các xã hội truyền thống và cổ xưa” (Sylvie Mesure & Patrick Savidan, 2006) .    2 Quan niệm phổ biến hiện nay cho rằng nhân loại học là một khoa học rất rộng, bao gồm nhiều phân ngành nghiên cứu về con người và văn hoá nói chung, trong đó có các lĩnh vực ngôn ngữ học, khảo cổ học, nhân loại học hình thể người, nhân loại học văn hoá-xã hội và nhân loại học ứng dụng. 3 Thông tin về tình hình dân tộc học – nhân học ở Trung Quốc được trình bày chi tiết trong các nghiên cứu của  G.E. Guldin (ed.), Anthropology in China. Armond: M.E Sharpe, Inc., 1992; và The Saga of Anthropology in China. From Malinowski to Moscow to Mao.  Armond: M.E. Sharpe, Inc., 1994); J. Smart (2005). Insearch of Anthropology in China: A Discpline Caught in the web of Nation Building Agenda, Socialist Capitalism, and Globalisation. From: Wane – Journal news; http://www.ram-wan.org/html/documents.htm