【#1】Đặc Điểm Tiếng Anh Chuyên Ngành Dược Học Trong Sự Đối Chiếu Với Tiếng Việt Tt
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VÕ THỊ BÊ
ĐẶC ĐIỂM TIẾNG ANH CHUYÊN NGÀNH
DƯỢC HỌC TRONG SỰ ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT
Ngành: Ngôn ngữ học so sánh, đối chiếu
Mã số: 9 22 20 24
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
HÀ NỘI – 2021
Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Hoàng Văn Vân
Phản biện 1: chúng tôi Lê Quang Thiêm
Phản biện 2: GS. TS. Nguyễn Quang
Phản biện 3: chúng tôi Nguyễn Văn Chính
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội
Việt Nam, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội.
vào hồi…giờ….phút, ngày….tháng….năm 2021
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
– Thư viện Quốc gia Việt Nam
– Thư viện Học viện Khoa học Xã hội
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dược học trước đây từng là một bộ phận trong ngành Y học. Song
với sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật trong thế giới hiện đại,
Dược học đã nhanh chóng tách ra thành một ngành độc lập nhưng vẫn còn
giữ mối liên hệ chặt chẽ với Y học, các ngành khoa học cơ bản và khoa học
ứng dụng khác (Lê Văn Truyền, 2014). Ngành dược chuyên về bào chế, sản
xuất các loại thuốc (hay còn gọi là dược phẩm) cũng như thực hiện việc
khám chữa bệnh, phân phối thuốc và có trách nhiệm đảm bảo an toàn, hiệu
quả của các loại dược phẩm. Vì vậy, khả năng sử dụng tiếng Anh chuyên
ngành thành thạo sẽ giúp những người làm trong ngành Y Dược có thể tiếp
cận với tri thức cũng như với những tiến bộ của ngành một cách nhanh
nhất. Bàn về vai trò của tiếng Anh khoa học, Robert Goldbort (2006) khẳng
định: “Tiếng Anh khoa học có ý nghĩa vô cùng to lớn trong cộng đồng các
nhà nghiên cứu khoa học”. Trên thực tế, những tài liệu nghiên cứu hay
những phát minh, ứng dụng mới về dược học trên thế giới hầu hết đều được
công bố bằng tiếng Anh. Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ chuyên ngành (ví
dụ, Halliday et al.,1964; Widdowson, 1979; Johns & Dudley-Evans, 1991)
cho rằng hiểu biết được những đặc điểm ngôn ngữ và văn bản của ngôn ngữ
chuyên ngành sẽ giúp quá trình đọc hiểu được nhanh hơn, viết các bài viết
về chuyên ngành có hiệu quả hơn và dịch chuyên ngành từ ngôn ngữ này
sang ngôn ngữ kia một cách chính xác hơn và thoát ý hơn. Hơn nữa, hiện
nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới vẫn chưa có công trình nghiên cứu
nào phân tích, đối chiếu những đặc điểm của VBCNDH tiếng Anh với tiếng
Việt dựa trên quan điểm ngôn ngữ học chức năng hệ thống. Thực tế trên
đây là động lực chủ yếu để chúng tôi triển khai đề tài ĐẶC ĐIỂM TIẾNG
ANH CHUYÊN NGÀNH DƯỢC HỌC TRONG SỰ ĐỐI CHIẾU VỚI
TIẾNG VIỆT.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án: (i) Mục đích
nghiên cứu: Luận án đặt ra hai mục đích nghiên cứu cơ bản sau: Thứ nhất,
phân tích bản chất và đặc điểm để tìm ra những đặc điểm ngôn ngữ nổi trội
trong văn bản chuyên ngành dược học (VBCNDH) tiếng Anh và tiếng Việt từ
quan điểm ngữ pháp chức năng hệ thống của Halliday về phương diện ngữ
vực (Register). Thứ hai, đối chiếu những điểm tương đồng và khác biệt về
đặc điểm ngôn ngữ trong hai loại văn bản trên để tìm ra những nét tương
1
đồng và khác biệt về phương diện Trường, Không khí, và Cách thức, cụ thể là
về đặc điểm: Hệ thống chuyển tác, Tham thể/Chủ ngữ, thuật ngữ, cấu
trúc/dạng, thức, tình thái, đề ngữ, quy chiếu và liên kết logic; (ii) Nhiệm vụ
nghiên cứu: (i) Tổng quan tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ chuyên
ngành, ngôn ngữ trong văn bản chuyên ngành y dược tiếng Anh và tiếng
Việt trên thế giới và ở Việt Nam; (ii) Tổng quan những đặc điểm cơ bản về
cơ sở lý thuyết của Ngôn ngữ học chức năng hệ thống để xây dựng khung lí
thuyết cho luận án ngữ vực; (iii) Sử dụng khung lí thuyết đã được thiết lập
để mô tả, phân tích các đặc điểm ngôn ngữ trong VBCNDH tiếng Anh và
tiếng Việt trên quan điểm của Ngôn ngữ học chức năng hệ thống về phương
diện Trường, Không khí và Cách thức; (iv) Đối chiếu đặc điểm ngôn ngữ
trong VBCNDH tiếng Anh với tiếng Việt theo các phương diện đã nêu, từ
đó thiết lập những nét tương đồng và khác biệt trong hai ngôn ngữ; và (v)
Kết luận chung về những đặc điểm ngôn ngữ nổi trội về đặc điểm Trường,
Không khí, Cách thức trong VBCNDH tiếng Anh và tiếng Việt.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án: (i) Phạm vi nghiên
cứu của luận án gồm những đặc trưng về Trường, Không khí và Cách thức
trong VBCNDH tiếng Anh và tiếng Việt; (ii) Đối tượng nghiên cứu là đặc điểm
ngôn ngữ trong VBCNDH tiếng Anh và tiếng Việt; (iii) Nguồn ngữ liệu là
VBCNDH được thu thập từ Tạp chí chuyên ngành dược, cụ thể là: Tiếng Anh:
British Journal of Pharmaceutical Research (Tạp chí nghiên cứu Dược học
Anh); Tiếng Việt: Tạp chí Dược học – Bộ Y tế. Luận án lựa chọn 25
VBCNDH tiếng Anh và 25 VBCNDH tiếng Việt được xuất bản từ năm 2011
đến 2021 về các loại thuốc, dược chất, bệnh, hay hướng nghiên cứu kết hợp sử
dụng các loại thuốc để miêu tả, phân tích và đối chiếu.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án: (i)
Phương pháp miêu tả: được sử dụng để giúp luận án miêu tả để tìm ra một
số đặc điểm ngôn trong VBCNDH tiếng Anh và tiếng Việt; (ii) Phương
pháp phân tích diễn ngôn: được sử dụng để tìm hiểu ý nghĩa về đặc điểm
của Trường, Không khí và Cách thức trong VBCNDH như thế nào; (iii)
Phương pháp so sánh – đối chiếu được sử dụng để đối sánh các đặc điểm
ngôn ngữ nổi trội của VBCNDH tiếng Anh và tiếng Việt nhằm tìm ra
những điểm tương đồng và khác biệt trong hai văn bản. Khung lỳ thuyết
luận án dùng để phân tích chủ yếu dựa trên lý thuyết ngữ pháp chức năng
hệ thống của Halliday về phương diện ngữ vực và một số nhà nghiên cứu
khác như Halliday & Hassan (1976), Hoàng Văn Vân (2005) v.v và lý
2
3
thể. Tuy nhiên, về cơ bản, ESP được gọi chung là tiếng Anh chuyên ngành
ở Việt Nam (Lâm Quang Đông, 2014). Khi nghiên cứu về bản chất các văn
bản khoa học trong mối quan hệ với dịch thuật, đi theo cách tiếp cận của
Halliday (1993), Hoàng Văn Vân (2005, 2010) đã chỉ ra một số đặc điểm có
thể khu biệt văn bản khoa học với các kiểu ngữ vực. Ông đã phác thảo một
bức tranh khái quát về ngữ vực trong ngôn ngữ khoa học. Ông cũng cho
thấy các văn bản khoa học trong tiếng Anh thường có những thuật ngữ bằng
tiếng Latinh hay có nguồn gốc từ tiếng Latinh. Như vậy, xét trên bình diện
nghiên cứu diễn ngôn, Hoàng Văn Vân (1993, 2005, 2006) v.v. và một số
công trình nghiên cứu khác của ông đã có những đóng góp đáng kể vào
nghiên cứu ngữ pháp, dịch thuật, phương pháp giảng dạy ngoại ngữ nói
chung và đặc điểm ngôn ngữ chuyên ngành nói riêng. Ngoài ra, đã có rất
nhiều công trình nghiên cứu so sánh đối chiếu các ngôn ngữ chuyên ngành,
mặc dù những chuyên ngành này không gần với chuyên ngành dược học
như công trình của Nguyễn Hòa (1999), Lê Hùng Tiến (1999), Nguyễn
Xuân Thơm (2001), Đỗ Tuấn Minh (2001), Nguyễn Thị Thanh Hương
(2003), Đỗ Kim Phương (2012), Trần Bình Tuyên (2017) v.v.
Bên cạnh những công trình về tiếng Anh chuyên ngành, đã có nhiều
nghiên cứu về tiếng Việt trên các bình diện khác nhau dựa trên các quan
điểm lí thuyết khác nhau như Trần Ngọc Thêm (1985), Diệp Quang Ban
(1989, 2005), Cao Xuân Hạo (1991, 2004), Hoàng Văn Vân (1997,
2002), Nguyễn Văn Hiệp (1999, 2007, 2008), Lâm Quang Đông (2007,
2011, 2014), Nguyễn Hồng Cổn (2000, 2004) và rất nhiều công trình
nghiên cứu khác. Trong các nghiên cứu trên, Cao Xuân Hạo là người
đầu tiên áp dụng triệt để quan hệ Đề – Thuyết vào phân tích cú pháp câu
tiếng Việt (dẫn theo Nguyễn Hồng Cổn, 2008). Ngoài ra, trong tiếng
Việt, trên lĩnh vực nghiên cứu về thuật ngữ và hệ thống thuật ngữ tiếng
Việt, cũng có rất nhiều công trình nghiên cứu nổi bật như Đỗ Hữu Châu
(1962), Nguyễn Thiện Giáp (1978), Hoàng Văn Hành (1983), Nguyễn
Đức Tồn (2002, 2010, 2021), Nguyễn Văn Khang (1999, 2007), Hà
Quang Năng (2009, 2010) và nhiều nghiên cứu khác.
1.3. Tình hình nghiên cứu tiếng Anh chuyên ngành dược học
trên thế giới và ở Việt Nam
1.3.1. Các nghiên cứu về đặc điểm tiếng Anh chuyên ngành dược
học trên thế giới:
Trên thế giới đã có một số công trình nghiên cứu về tiếng Anh chuyên
ngành dược trên các bình diện và hình thức khác nhau. Cụ thể là nghiên cứu
của Boudemagh Wided (2010), Lukasz Grabowski (2013, 2021) v.v. Những
nghiên cứu này đã cho thấy một số phát hiện hữu ích không những về mặt sư
5
phạm cho cả giáo viên và học viên tiếng Anh chuyên ngành dược học mà còn
có thể mở rộng đối với những loại văn bản chuyên ngành khác.
1.3.2. Các nghiên cứu về đặc điểm tiếng Anh chuyên ngành dược
học ở Việt Nam
Về lĩnh vực khoa học ngành dược có công trình của Lâm Thị Thùy
Linh (2011). Nghiên cứu đã chỉ ra sự tương đồng và khác biệt về đặc điểm
ngôn ngữ của hai loại văn bản hướng dẫn sử dụng thuốc trong tiếng Anh và
tiếng Việt. Công trình đã có ý nghĩa to lớn đối với việc dạy học tiếng Anh
chuyên ngành y dược cũng như trong việc dịch thuật tiếng Anh như là một
ngoại ngữ. Tiếp theo là công trình nghiên cứu về ẩn dụ ngữ pháp trong diễn
ngôn dược học của Vũ Thị Mẫu (2012). Nghiên cứu đã cho thấy đặc điểm
của ẩn dụ ngữ pháp trong các diễn ngôn dược học tiếng Anh và mối quan
hệ mật thiết giữa việc sử dụng ẩn dụ ngữ pháp và sự tạo thành của văn bản
dược học. Như vậy, có thể cho thấy ngôn ngữ chuyên ngành có thể được
tiếp cận nghiên cứu từ nhiều góc độ và trên các bình diện của diễn ngôn
chuyên ngành (Nguyễn Xuân Thơm, 2008).
1.4. Lý thuyết về diễn ngôn và phân tích thể loại diễn ngôn (genre
analysis)
1.4.1. Khái niệm diễn ngôn: Trên thế giới, khái niệm diễn ngôn đã
được rất nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ đưa ra những quan điểm khác
nhau. Khái niệm diễn ngôn lần đầu được Z. Harris (1952) cho rằng diễn
ngôn là văn bản liên kết ở cấp độ cao hơn câu. Nó là một đơn vị mở, có khả
năng phân tích. Sau này Halliday và Hassan (1976) cũng nhận định diễn
ngôn gắn với chức năng giao tiếp của nó khi nó nhấn mạnh văn bản hay
diễn ngôn là đơn vị ngôn ngữ chức năng giao tiếp. Ở Việt Nam, đi theo
khuynh hướng về quan điểm diễn ngôn của Halliday và Hassan, Hoàng Văn
Vân (2006) đã khẳng định ngôn bản hay diễn ngôn là ngôn ngữ trong sử
dụng. Chính vì vậy, trong luận án này, chúng tôi sử dụng thuật ngữ diễn
ngôn và văn bản thay thế cho nhau để mô tả đặc điểm văn bản chuyên
ngành dược học tiếng Anh và tiếng Việt.
1.4.2. Khái niệm phân tích diễn ngôn: Cho đến nay đã có nhiều
quan điểm về phân tích diễn ngôn. Halliday (1994) đã có quan điểm khái
quát hơn về phân tích diễn ngôn. Ông cho rằng: “Phân tích diễn ngôn phải
được xây dựng trên việc nghiên cứu hệ thống của một ngôn ngữ. Đồng thời,
lý do chủ yếu cho việc nghiên cứu hệ thống là nhằm làm sáng tỏ ngôn bản –
điều mà người ta nói và viết, nghe và đọc. Cả hệ thống và ngôn bản đều
phải nằm trong tiêu điểm của sự chú ý. Nếu không thì sẽ không có cách nào
để so sánh ngôn bản này với ngôn bản kia, hay với cái mà chính nó có thể
đã là như vậy nhưng trong thực tế thì nó lại không phải là thế. Và, có thể
6
tiếng Việt, Trần Ngọc Thêm (1999) cho rằng cũng có các phương tiện liên
kết tương tự trong tiếng Anh. Nguyễn Văn Hiệp (2008) đã cho thấy cấp độ
của các chỉ tố liên kết văn bản. Như vậy, đặc trưng về Cách thức trong
VBCNDH tiếng Anh được tiến hành tìm hiểu các loại cấu trúc đề thuyết,
các cách thức tổ chức diễn ngôn cả ở phương tiện quy chiếu cũng như liên
kết logic sẽ được dựa chủ yếu vào khung lý thuyết ngữ pháp chức năng hệ
thống của Halliday cũng tham khảo lý thuyết của nhà ngôn ngữ Nguyễn
Văn Hiệp và một số nhà Việt ngữ học khác trong tiếng Việt.
1.6. Lý thuyết về ngữ vực
Halliday & Hassan (1989) mô tả như sau: (i) Trường của ngôn bản là
chỉ ra cái gì đang xảy ra, bản chất của hành động xã hội đang diễn ra (ii)
Không khí của ngôn bản là chỉ ra việc ai đang tham gia vào, bản chất của
những người tham gia, các vai diễn và vị thế của họ; (iii) Cách thức của ngôn
bản là chỉ ra vai trò của ngôn ngữ đang đóng, cái mà những người tham gia
đang chờ đợi ngôn ngữ thực hiện cho họ trong tình huống đó là gì. Như vậy,
trong phạm vi luận án, nghiên cứu đặc điểm của ngôn ngữ chuyên ngành
dược học trên các phương diện ngữ vực theo quan điểm ngữ pháp chức năng
hệ thống của Halliday chính là nghiên cứu các đặc điểm về Trường, Không
khí và Cách thức được thực hiện hóa qua các bình diện về kinh nghiệm, liên
nhân và văn bản.
1.7. Lý thuyết ngôn ngữ so sánh đối chiếu
Luận án áp dụng lý thuyết ngôn ngữ học đối chiếu của Bùi Mạnh
Hùng (2008). Bước một, mô tả (luận án mô tả các đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ
pháp – từ vựng, văn bản sử dụng chủ yếu khung ngữ pháp chức năng hệ
thống của Halliday và tham khảo một số nhà nghiên cứu khác. Bước hai,
xác định những thông số để so sánh đối chiếu (dựa vào những đặc điểm
ngôn ngữ qua mô tả chúng tôi sẽ chọn các đặc điểm ngôn ngữ điển hình của
văn bản chuyên ngành dược học trong tiếng Anh và tiếng Việt để so sánh
đối chiếu). Bước ba, đối chiếu.
1.8. Tiểu kết
Chương này luận án đã điểm lại tình hình nghiên cứu tiếng Anh
chuyên ngành nói chung cũng như ngôn ngữ chuyên ngành dược trong
tiếng Anh và tiếng Việt trên thế giới và Việt Nam. Hơn nữa, luận án đã trình
bày một số đặc điểm quan trọng nhất của lí thuyết ngữ pháp chức năng hệ
thống về phương diện ngữ vực và lí thuyết ngôn ngữ học so sánh đối chiếu.
Như vậy, những quan điểm của Halliday về lý thuyết ngữ vực và các siêu chức
năng của ngôn ngữ sẽ là công cụ để luận án tiến hành phân tích VBCNDH
tiếng Anh và tiếng Việt trên các đặc trưng về Trường, Không khí và Cách thức.
9
phương pháp ghép; (vi) phương thức viết tắt. Thứ tư, thuật ngữ dược học
tiếng Anh đều là các từ loại mở, bao gồm danh từ, tính từ, động từ, và có thể
có cả trạng từ (dẫn theo Vương Thị Thu Minh, 2005).
2.1.4. Kết quả phân tích cấu trúc/dạng
Thứ nhất, dạng bị động được sử dụng cao trong VBCNDH tiếng Anh
(chiếm 31%), đặc biệt là ở phần thân bài. Kết quả này cũng minh chứng cho
quan điểm khi phân tích ngữ vực của tiếng Anh khoa học của Ewer &
Latorre’s đã được Tom Hutchinson & Alan Waters chỉ ra “There was little
that was distinctive in the sentence grammar of Science English beyond a
tendency to favour particular forms such as the psent simple tense, the
passive voice, and nominal compounds” (1987). Thứ hai, dạng bị động
trong VBCNDH tiếng Anh thường có dạng: Chủ ngữ + be + Quá trình ở
mẫu phân từ quá khứ + by. Tuy nhiên vẫn tồn tại một số cú dạng bị động bị
lược bỏ quá trình be. Thứ ba, một số phụ ngữ chỉ sự đánh giá hay tần suất
được đứng trước các quá trình trong nhiều cú dạng bị động.
2.2. Đặc điểm về Không khí trong văn bản chuyên ngành dược
học tiếng Anh
2.2.1. Kết quả phân tích Thức
Kiểu thức được sử dụng duy nhất trong VBCNDH tiếng Anh đó là
thức tuyên bố. Trong đó, thức tuyên bố khẳng định chiếm tỷ lệ đa số. Bên
cạnh đó, một số thức tuyên bố phủ định cũng được sử dụng để khẳng định
những kết quả của người viết diễn ngôn đã đưa ra. Kết quả này hoàn toàn
phù hợp với nghiên cứu của Derewianka (2011).
2.2.2. Kết quả phân tích tình thái
Thứ nhất, việc sử dụng các động từ tình thái đặc biệt như may, might,
could với tần số cao để chỉ mức độ khả năng chắc chắn của một tuyên bố trong
VBCNDH tiếng Anh. Kết quả này đã chứng tỏ đây là đặc điểm yêu cầu trong
một văn bản khoa học (Tony Dudley-Evan, 1998). Ngoài ra, tần số sử dụng
động từ tình thái cao vượt trội trong VBCNDH tiếng Anh cũng cho thấy “Dạng
ngôn ngữ chung được tìm thấy trong văn bản khoa học đó là các động từ đặc
biệt, ví dụ như động từ tình thái” (Hutchíon & Waters, 1984). Thứ hai, Phụ
ngữ tình thái xuất hiện không đáng kể trong VBCNDH tiéng Anh. Như vậy,
với cách kiến tạo của các động từ tình thái và Phụ ngữ tình thái chỉ ra tình
thái trong VBCNDH tiếng Anh phù hợp với khung cảnh của khoa học hiện
đại, đó là một khung cảnh trong đó phần nhiều kiến thức được khám phá chỉ
mang “tính sác xuất” (Probability) hay “tính không chắc chắn” (uncertainty)
(Halliday, 1993) và Moss (2000).
11
khoa học khác. Đây là một trong những phương tiện quan trọng nhất
mang lại cho VBCNDH tiếng Anh khác với các văn bản khoa học khác.
Ngoài ra, luận án chỉ ra số lượng vượt trội của các Chủ ngữ không phải
là người mà là các sự vật về một loại dược liệu, dược chất, hóa chất,
thuốc, hay hiện tượng của một bệnh nào đó. Đồng thời, luận án cũng cho
thấy dạng bị động được sử dụng cao trong VBCNDH tiếng Anh; (ii) Đặc
điểm về Không khí: với sự xuất hiện đại đa số các cú tuyên bố khẳng
định và số lượng đáng kể của các yếu tố tình thái chứng minh rằng trong
VBCNDH tiếng Anh, những luận điểm khoa học được khẳng định một
cách khách quan với cách diễn tả thông qua kiểu tình thái hóa với tư cách
là đặc điểm của cú trong hai ý nghĩa “khả năng” và “sự thường lệ” (Tony
Dudley-Evans, 1998). (iii) Đặc điểm về Cách thức: sự kết hợp của kiểu
Đề hóa cùng với quy chiếu ngôi, quy chiếu chỉ định và liên kết logic cao
đã mang lại cho VBCNDH tiếng Anh tính liên kết và minh xác cao.
CHƯƠNG 3
ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TRONG VĂN BẢN CHUYÊN NGÀNH
DƯỢC HỌC TIẾNG VIỆT
3.2. Đặc điểm về Trường trong văn bản chuyên ngành dược học
tiếng Việt
3.2.1. Kết quả phân tích các kiểu quá trình
Thứ nhất, quá trình vật chất và quá trình quan hệ chiếm ưu thế tuyệt
đối (chiếm 40% cú quá trình vật chất). Thứ hai, quá trình phát ngôn được sử
dụng như là quá trình giải thích ‘hành động hữu ngôn’ hay hành động phát
ngôn. Thứ ba, quá trình hiện hữu chỉ xuất hiện 3,3% nhưng VBCNDH tiếng
Việt đã thể hiện hay thừa nhận một thực thể nào đó hiện hữu. Thứ tư,
quá trình tinh thần tri giác trong VBCNDH tiếng Việt có thể được biểu hiện
quá trình chỉ cảm giác như nhận thấy, quan sát thấy. Thứ năm, VBCNDH
tiếng Việt thể hiện các ngữ vực khoa học, vì vậy chúng chỉ có thể tồn tại
hay hoạt động, chúng không thể ứng xử như các thực thể có tư duy (Hoàng
Văn Vân, 2021).
3.2.2. Kết quả phân tích Tham thể/ Chủ ngữ
Thứ nhất, các cú có Tham thể/Chủ ngữ hiển ngôn phân bố không
đồng đều trong VBCNDH tiếng Việt. Thứ hai, đối với các cú không có
Tham thể/Chủ ngữ hiển ngôn được tái hiện lại đa phần các sự vật, hiện
tượng hình thành nên một phần của văn bản. Tuy nhiên, các cú không có
Tham thể/Chủ ngữ hiển ngôn ở phần kết luận khi được tái hiện lại thì đại đa
số là Tham thể/Chủ ngữ chỉ người hoặc sự vật.
13
3.2.3. Kết quả phân tích thuật ngữ khoa học
Thứ nhất, thuật ngữ khoa học xuất hiện trong tất cả các cú. Chính đặc
điểm này đã minh họa cho nhận định của Halliday về đặc điểm cơ bản của
văn bản khoa học “Các khái niệm đan xen nhau, tính kỹ thuật, và mật độ từ
vựng cao” (Halliday, 1993). Thứ hai, các thuật ngữ xuất hiện trong Chủ
ngữ tập trung hầu hết trong quá trình vật chất và quá trình quan hệ (ví dụ:
Viêm khớp là chứng bệnh thường gặp với biểu hiện viêm sưng và đau
khớp). Thứ ba, thuật ngữ dược học tiếng Việt được vay mượn theo nguyên
dạng viết tắt hoặc dựa trên cơ sở các yếu tố thuần Việt, Hán – Việt, và Ấn
Âu. Thứ tư, thuật ngữ dược học tiếng Việt có thể được hình thành từ
phương thức dịch nghĩa như: dược trị liệu (pharmacotherapy), dược động học
(pharmacodynamics) v.v. Thứ năm, đặc điểm từ loại của thuật ngữ dược học
tiếng Việt bao gồm: (i) danh từ; (ii) tính từ; (iii) động từ; và (iv) ngữ danh từ.
3.2.4. Kết quả phân tích cấu trúc/dạng
Thứ nhất, dạng chủ động chiếm ưu thế, dạng bị động được sử dụng
trong các trường hợp cú có Tham thể chủ ngữ hiển ngôn và cú có Tham thể
chủ ngữ không hiển ngôn. Kết quả này có thể được giải thích như sau: “Nếu
xét về mặt lý thuyết, trong tiếng Việt luôn luôn có đầy đủ ý niệm về tính chủ
động và hậu quả bị động của các hành động tích cực, có ý thức tác động lên
sự vật của con người. Nếu xét về mặt thực hành, trong văn phong khoa học
các cấu trúc bị động được sử dụng khá rộng rãi và thường xuyên” (Nguyễn
Văn Thành, 2003). Thứ hai, ý nghĩa bị động thường được thể hiện bằng tiểu
từ bị động được.
3.3. Đặc điểm về không khí trong văn bản chuyên ngành dược
học tiếng Việt
3.3.1. Kết quả phân tích thức
Thứ nhất, cú tuyên bố chiếm vị trí độc tôn trong VBCNDH tiếng Việt,
trong đó cú tuyên bố khẳng định chiếm đại đa số. Thứ hai, khi nhận định về
những bằng chứng hay kết quả của những nghiên cứu thì giá trị liên nhân được
thể hiện thông qua các cú tuyên bố để chỉ ra những nhận định chủ quan của tác
giả thông qua những bằng chứng, kết quả nghiên cứu. Ngoài ra, các cú tuyên
bố còn chỉ rõ tính mục đích của tác giả trong VBCNDH tiếng Việt.
3.3.2. Kết quả phân tích tình thái
Thứ nhất, chức năng liên nhân trong VBCNDH tiếng Việt được hiện
thực hóa bằng tình thái, trong đó phương tiện phù hợp để thể hiện là kiểu tình
thái chỉ “khả năng” và nghĩa đặc thù của kiểu tình thái này là có thể, có khả
năng. Thứ hai, về ý nghĩa tình thái chỉ “sự thường lệ”, chỉ có Phụ ngữ tình thái
xuất hiện là thường/thông thường và luôn/luôn luôn. Ngoài ra chỉ xuất hiện duy
nhất 1 lần Phụ ngữ tình thái chỉ sự thường lệ khác.
14
3.4. Đặc điểm về Cách thức trong văn bản chuyên ngành dược
học tiếng Việt
3.4.1. Kết quả phân tích Đề ngữ
Thứ nhất, kiểu Đề ngữ không đánh dấu được sử dụng phổ biến hơn
Đề ngữ đánh dấu. Điều này cho thấy, trong VBCNDH tiếng Việt kiểu Đề
ngữ trong cú “cú như là thông điệp” (Halliday, 1998), nó giữ chức năng
tuyền tải thông điệp, đề cập thẳng đối tượng được nói đến người nghe/người
đọc. Thứ hai, các Đề ngữ đánh dấu tuy xuất hiện ít hơn Đề ngữ không đánh
dấu, nhưng VBCNDH tiếng Việt muốn nhằm tới mục đích đảm bảo tính chân
thực, tính chính xác của các hành động, các sự việc diễn ra về không gian,
thời gian, cách thức v.v. Thứ ba, Đề ngữ văn bản trong VBCNDH tiếng Việt
có chức năng liên kết thông điệp, tạo nên sự logic trong văn bản. Thứ tư, Đề
ngữ liên nhân trong VBCNDH tiếng Việt bao gồm các phụ ngữ tình thái với
chức năng liên nhân có giúp người viết/ người nói bộc lộ cách đánh giá tạo
nên sự tương tác với người đọc/ người nghe.
3.4.2. Kết quả phân tích liên kết
Thứ nhất, Quy chiếu ngôi và quy chiếu chỉ định được sử dụng không
đáng kể. Kết quả này cũng nhận định quan niệm của Brown (dẫn theo
Nguyễn Quang, 2002) “Việc sử dụng tên riêng chính là xác định cá nhân
như một thể duy nhất”. Thứ hai, VBCNDH tiếng Việt đã sử dụng liên kết
logic cao để diễn đạt trong lập luận của diễn ngôn. Thứ ba, các tổ hợp từ
ngoài ra, hơn nữa làm liên tố và chỉ cái dùng để so sánh (cách nói khác:
hơn thế nữa) trong cú chứa nó, đồng thời nêu lên quan hệ bổ sung với
những điều đã nói đến trước đó trong VBCNDH tiếng Việt.
3.5. Tiểu kết
(i) Đặc điểm về Trường: quá trình quan hệ được khai thác cao nhất
trong VBCNDH tiếng Việt đồng thời độ đậm đặc các thuật ngữ khoa học
cao kết hợp với sự xuất hiện của nhiều thuật ngữ khoa học khác đặc biệt là
thuật ngữ Latinh và từ Hán – Việt. Đây là một trong những phương tiện quan
trọng nhất mang lại cho VBCNDH tiếng Việt khác với các văn bản khoa học
khác. Hơn nữa, luận án cũng chỉ ra số lượng chiếm ưu thế của các Tham
thể/Chủ ngữ hiển ngôn. Thêm vào đó, có sự xuất hiện số lượng đáng kể của
dạng bị động trong VBCNDH tiếng Việt. (ii) Đặc điểm về Không khí: kiểu
thức tuyên bố khẳng định chiếm ưu thế tuyệt đối trong VBCNDH tiếng Việt.
Ngoài ra, các kiểu tình thái hóa cũng được sử dụng để xây dựng ý nghĩa
khách quan trong VBCNDH tiếng Việt. Với việc sử dụng đại đa số các cú
tuyên bố khẳng định và một số lượng các yếu tố tình thái cho thấy cách thức
trong VBCNDH tiếng Việt thể hiện thái độ đối với thông tin nhìn từ chức
năng liên nhân. (iii) Đặc điểm về Cách thức: việc phân tích Đề ngữ đã cho
thấy ba bình diện cấu trúc ngữ nghĩa của cú trong VBCNDH tiếng Việt.
15
tồn tại những đơn vị từ vựng mà nó vừa có mặt trong ngôn ngữ thông thường,
vừa có mặt trong ngôn ngữ chuyên ngành dược học. Điều này được Lê Quang
Thiêm (2006) gọi “đây là quá trình trí tuệ hóa các từ thông thường”. Thứ ba,
số lượng lớn mật độ thuật ngữ khoa học dày đặc trong đó có sự kết hợp của thuật
ngữ dược học với các thuật ngữ khoa học khác như thuật ngữ hóa học, sinh học,
y học v.v. đây cũng là một trong những đặc điểm của ngôn ngữ khoa học mà Lưu
Trọng Tuấn đã chỉ ra “Dùng những thuật ngữ đặc thù cho từng ngành khoa học,
tuy nhiên có khuynh hướng trao đổi thuật ngữ giữa các ngành khoa học khác
nhau” (2008).
4.2.2.2. Những nét khác biệt: Thứ nhất, tỉ lệ cú có Tham thể/Chủ ngữ hiển
ngôn trong VBCNDH tiếng Anh cao hơn trong tiếng Việt. Thứ hai, tần số
xuất hiện của thuật ngữ khoa học trong các cú có Tham thể làm chủ ngữ
trong VBCNDH tiếng Anh cao hơn không đáng kể so với chúng có trong
tiếng Việt. Nhưng về nguồn gốc thì có sự khác nhau cơ bản về hệ thuật ngữ
dược học trong hai ngôn ngữ. Điều này cho thấy “Thuật ngữ thường gắn liền
với nơi sản sinh ra nó, vì thế một thuật ngữ tiếng Anh đôi khi không tìm thấy
tương đương hoàn toàn trong tiếng Việt, có thể do khái niệm đó chỉ có ở văn
hóa phương Tây chưa chuyển di sang văn hóa Việt, song cũng có thể do cách
nhìn khác nhau từ hai nền văn hóa khác nhau cho cùng một khái niệm”(Lưu
Trọng Tuấn, 2008). Sự khác biệt đáng kể này cũng có thể được giải thích
theo Nguyễn Văn Khang đó là: “chỉ như vậy mới có thể thể hiện chính xác
được nội dung của khái niệm vừa nêu” ; NP2 + V1 (bị động) + NP2 + V2 [bị động]
(Hoàng Văn Vân, 2002). Hoặc, các cú ở dạng bị động trong VBCNDH
tiếng Việt, ngoài cấu trúc: Chủ ngữ + được/bị (theo cách gọi của ngữ pháp
truyền thống) + Động từ (quá trình) + Chu cảnh (chu cảnh chỉ nguyên
nhân) thì còn có nhiều cú được sử dụng với cấu trúc: Chủ ngữ + được/bị +
Chủ ngữ + Quá trình (Nguyễn Hồng Cổn & Bùi Thị Diên, 2004).
4.3. Đối chiếu đặc điểm về Không khí trong VBCNDH tiếng Anh
với tiếng Việt
4.3.1. Kết quả đối chiếu đặc điểm Thức
Thứ nhất, việc khai thác tỉ lệ cao của cú tuyên bố trong cả hai
ngôn ngữ kết hợp xu hướng tạo Phụ ngữ tình thái nhằm diễn tả quan điểm
của người viết diễn ngôn trong VBCNDH. Thứ hai, dạng thức nghi vấn hoặc
thức mệnh lệnh vắng mặt trong cả hai ngôn ngữ mặc dù cùng chỉ sử dụng
dạng thức tuyên bố và chủ yếu là thức tuyên bố khẳng định để kiến tạo văn
bản. Kết quả này cũng thể hiện rõ nét VBCNDH tiếng Anh cũng như tiếng
Việt mang những đặc trưng chung của văn bản khoa học đã được Lưu Trọng
Tuấn (2008) chỉ ra như sau: “Văn bản khoa học có chức năng thông báo là
chủ yếu, thường trình bày những hiện tượng, quy luật của tự nhiên v.v”.
4.3.2. Kết quả đối chiếu đặc điểm Tình thái
4.3.2.1. Những nét tương đồng: Thứ nhất, Tình thái trong cả hai văn
bản cao hơn so với các văn bản thông thường (Ewer & Hughes-Davies, 1971),
đây cũng chính là đặc điểm khác biệt giữa văn bản chuyên ngành dược học so
với các văn bản khác. Thứ hai, VBCNDH tiếng Anh và tiếng Việt cùng sử dụng
động từ tình thái nhiều hơn tình thái chỉ sự thường lệ, có nghĩa là người nói/
người viết muốn đưa ra nhận xét, quan điểm của mình một cách khách quan hơn
khi họ dùng trạng từ, tính từ hoặc danh từ (Nguyễn Thị Thu Thủy, 2012)
4.3.2.2. Những nét khác biệt: Thứ nhất, VBCNDH tiếng Anh dường
như phù hợp hơn với kiểu kiến thức khám phá chỉ mang “tính xác suất” hay “tính
không chắc chắn” (Halliday, 1993), Moss (2000). Như vậy, mặc dù không có sự
khác biệt đáng kể nhưng với cách kiến tạo văn bản theo kiểu này trong
VBCNDH tiếng Anh đã giúp người đọc có khả năng đàm phán văn bản cao hơn
so với văn bản tiếng Việt. Thứ hai, trong văn phong khoa học tiếng Anh và tiếng
Việt, xu hướng sử dụng động từ tình thái (có thể/ có khả năng/ có năng lực/ được
phép/ biết) được sử dụng nhiều hơn so với các phụ ngữ tình thái. Thứ ba, kiểu
kiến tạo văn bản với các phụ ngữ tình thái chỉ “sự thường lệ” xuất hiện ở cả
hai ngôn ngữ cho thấy “Phụ ngữ tình thái rất quan trọng về mặt chức năng
trong cú” (Halliday, 1993). Tuy nhiên, phụ ngữ tình thái xuất hiện chỉ có
12 lần/2.101 cú (chiếm 0,6%) trong VBCNDH tiếng Anh, trong khi đó
chúng xuất hiện 20 lần/1.161 cú (chiếm 1,7%) trong VBCNDH tiếng Việt.
Kết quả này có thể lý giải sự khác nhau về về việc ưa chuộng cách sử dụng
18