Top 5 # Dạy Học Tiếng Việt Theo Hướng Phát Triển Năng Lực Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 4/2023 # Top Trend | Lienminhchienthan.com

Dạy Học Môn Tiếng Việt Theo Hướng Phát Triển Năng Lực

Thuật ngữ năng lực ở đây được hiểu theo quan điểm giáo dục hướng vào năng lực hành động: “Năng lực là khả năng huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính tâm lí cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,… để thực hiện thành công một loại công việc trong một bối cảnh nhất định”.

Trong dạy học Tiếng Việt, năng lực hành động được hiểu là năng lực giải quyết một nhiệm vụ giao tiếp – năng lực giao tiếp. Năng lực giao tiếp vừa là năng lực đặc thù của môn Tiếng Việt vừa là một năng lực chung mà trường học phải hình thành và phát triển.

2. Một vài ví dụ để phân biệt dạy học tập trung vào phát triển năng lực và dạy học tập trung vào nội dung (kiến thức, kĩ năng).

Việc dạy học tiếng Việt ở phổ thông có thể chia thành 3 lĩnh vực:

– Dạy học các tri thức tiếng Việt.

– Dạy học tiếp nhận ngôn bản (nghe, đọc hiểu)

– Dạy học tạo lập ngôn bản (nói,viết, trình bày)

a) Trong dạy học các tri thức tiếng Việt, chúng ta đang quá tập trung vào nhận biết, phân tích, phân loại các đơn vị ngôn ngữ mà ít chú ý đến việc sử dụng chúng.

GV chúng ta thường chỉ quan tâm, băn khoăn thắc mắc một tổ hợp ngôn ngữ nào đó là một từ hay hai từ, chúng là từ đơn, từ ghép hay là từ láy, chúng thuộc biện pháp so sánh hay không phải là so sánh, chúng là danh từ, động từ hay tính từ, một tổ hợp nào đó thuộc kiểu câu Ai là gì? Ai làm gì? hay kiểu câu Ai thế nào?, chúng là câu đơn hay là câu ghép… mà không quan tâm chúng được dùng để làm gì, dùng như thế nào trong hoạt động nói năng, lúc nào, hoàn cảnh nào thì nên chọn chúng.

Ví dụ bài tập để nhận biết từ đơn, láy, ghép mà bài tập sử dụng chúng (là bài tập tạo năng lực) như sau thường xuất hiện ít:

Thay những từ được in đậm bằng một từ láy để các câu sau trở nên gợi tả hơn:

– Đêm trung thu trăng sáng lắm. Dưới trăng, dòng sông trông như dát bạc.

(Đáp án: long lanh, vằng vặc, lung linh, chấp chới/rập rờn)

Để phát triển năng lực dùng từ cho học sinh, giáo viên cần chỉ dẫn được cho các em trong tình huống nào thì chọn từ đơn hay từ ghép, từ láy, dùng từ theo nghĩa gốc hay nghĩa chuyển, dùng một từ hay một ngữ, chỉ dẫn bộ phận nào cách đặt câu bộ phận nào nên đặt trước hay đặt sau…Có như vậy, khi dạy viết văn miêu tả mới chuyển được những cách dùng từ, đặt câu của học sinh như “Buổi sáng thuyền đi làm” thành “Buổi sáng thuyền căng buồm ra khơi” “Mỗi khi đi qua đây, ai cũng hít lấy hít để mùi thơm” thành “Ai cũng muốn đến đây để thưởng thức hương thơm” hay ” Vừa tới nơi, hương thơm đã dạt dào bay vào cánh mũi“, chuyển từ ” Có nhiều con chim đang bay” thành ” Những cánh chim chấp chới (dập dờn)“,chuyển từ “Vừa liếm vào múi sầu riêng, ta đã thấy nó ngọt” thành “Khi đầu lưỡi ta vừa chạm vào múi sầu riêng,vị ngọt của nó dường như đã lan tỏa” …

b) Trong dạy học tập đọc, chúng ta đang quá tập trung vào nhận biết, tái hiện các tình tiết của văn bản (đọc nhớ) mà ít giải thích và đặc biệt ít dạy học sinh hồi đáp (đánh giá, liên hệ) nên chưa dạy học sinh đọc vận dụng, sáng tạo.

Ví dụ, điều chỉnh tổ hợp câu hỏi của bài tập đọc Tìm ngọc (SGK TV2, tập 1 trang 138) (Theo gợi ý và trợ giúp của Fiona Farley chuyên gia tư vấn quốc tế dự án VNEN) là một minh chứng cho việc chuyển từ hệ câu hỏi nặng về tái hiện, ghi nhớ (đọc nhớ) thành những bài tập phát huy liên cá nhân, phát triển tư duy sáng tạo, kích thích hứng thú, khả năng làm việc độc lập và hợp tác của học sinh.

Các câu hỏi của sách giáo khoa:

1. Do đâu chàng trai có viên ngọc quý?

2. Ai đánh tráo viên ngọc?

3. Mèo và Chó đã làm cách nào để lấy lại viên ngọc?

a) Ở nhà người thợ kim hoàn

b) Khi ngọc bị cá đớp mất

c) Khi ngọc bị quạ cướp mất.

4. Tìm trong bài những từ khen ngợi Mèo và Chó. Những câu hỏi/ bài tập đã được điều chỉnh:

a) Hãy chia các nhân vật trong câu chuyện ra thành hai nhóm: nhân vật tốt và nhân vật xấu.

b) Giải thích vì sao em xếp mỗi nhân vật vào nhóm đó.

c) Em thích nhân vật nào trong câu chuyện, vì sao?

Bài tập 1 được tiến hành với đồ dùng dạy học: hình giấy 7 nhân vật của câu chuyện (chàng trai, Chó, Mèo, người thợ kim hoàn, chuột, cá, quạ), một tờ giấy A0 và một hộp bút màu. Bài tập này có những lợi thế sau:

– Về nội dung, bài tập đã chuyển yêu cầu nhận biết tình tiết truyện của 3 câu hỏi đầu trong sách giáo khoa thành yêu cầu đánh giá nhân vật dựa vào các tình tiết truyện (thông tin từ truyện). Bài tập này hình thành cho học sinh năng lực đánh giá bằng cách thu thập dữ kiện. Nó chứa một vấn đề cần giải quyết và cũng tiềm ẩn một cơ hội cho tư duy phản biện của học sinh (mà hầu như sách giáo khoa hiện nay không tạo cơ hội này): trong các nhân vật của truyện, có nhân vật không tốt cũng không xấu.

– Về hình thức thực hiện, đây là một bài tập dành cho hoạt động nhóm. Về cách thể hiện kết quả, với 2 phương tiện đã cho, học sinh có thể lựa chọn hoặc là dán các nhân vật vào từng nhóm tốt xấu (đáp án chờ đợi có cả nhân vật được đặt trên đường kẻ giữa), hoặc là tô khác màu cho các nhóm nhân vật. Hình thức thực hiện của bài tập sẽ tạo hứng thú cho học sinh

Bài tập 2 là một bài tập yêu cầu giải thích, là một bài tập cao hơn bài tập tái hiện của sách giáo khoa. Đây là một bài tập mở vì nó tạo cơ hội cho học sinh đưa ra những lí do khác nhau. Bài tập này tạo cho học sinh cơ hội trình bày lập luận, luyện tập cho học sinh cách bảo vệ ý kiến của mình. Đây là những kĩ năng sẽ được chú trọng hình thành trong chương trình mới.

Câu hỏi 3 cũng là một câu hỏi mở, một câu hỏi mang tính liên cá nhân, nó tạo cơ hội cho học sinh nói lên ý kiến của mình một cách tự do.

c) Trong dạy học tạo lập văn bản (tập làm văn), chúng ta hay để học sinh nhớ, thuộc bài văn mẫu để chép theo mà ít dạy học sinh suy nghĩ để có ý tưởng của riêng mình, ít dạy học sinh cách biểu đạt những ý tưởng này nên các em không biết cách viết sáng tạo.

Để khắc phục điều này, trước hết chúng ta cần có những đề bài tạo cơ hội cho học sinh sáng tạo, ví dụ:

– Thế nào là người hạnh phúc? Em hãy viết đoạn văn trình bày ý kiến của mình.

– Hãy tưởng tượng em sang thăm nước Nhật và sẽ đến trước tượng đài Xa-xa-cô (trong câu chuyện Những con sếu bằng giấy, SGK Tiếng Việt 5, trang 36-37). Em muốn nói gì với Xa-xa-cô để tỏ tình đoàn kết của trẻ em khắp năm châu và khát vọng thế giới được sống cuộc sống hòa bình? Hãy viết đoạn văn ghi lại những điều em muốn nói.

(Đề 9, Đề 10, Ôn tập – kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh môn Tiếng Việt lớp 5 học kì I NXB ĐHSP – 10/2016)

Tất nhiên, để học sinh có thể thực hiện được đề bài này, trước hết giáo viên phải có năng lực viết văn, bởi vì chúng ta không thể hình thành, phát triển cho học sinh một năng lực nào đó mà chúng ta không có, không thể gặt hái một cái gì mà chúng ta không có khả năng gieo trồng.

Tác giả: Tổ chuyên môn khối 2

Dạy Học Theo Định Hướng Phát Triển Năng Lực

TRƯỜNG TIỂU HỌC SÔNG NHẠNHUYỆN CẨM MỸ – TỈNH ĐỒNG NAINgười thực hiện: Đinh Quốc NguyễnDẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰCDẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC “Năng lực làm thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các KT, KN và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí, … thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể”. (Dự thảo Chương trình GDPT tổng thể – 2018)CÁC THÀNH TỐ CỦA NĂNG LỰC

Kiến thức /hiểu – lí thuyết

Kĩ năng/làm – thực hành

GỢI Ý ĐỔI MỚI DẠY LUYỆN TỪ VÀ CÂUXây dựng câu hỏi/bài tập LT&C theo 4 mức độVí dụ minh họa : kiểm tra kiến thức tiếng ViệtMức 1 (Biết) : Nhận biết được kiến thức tiếng Việt (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp…) đã được học (tính đến thời điểm kiểm tra).Ví dụ: Tìm từ chỉ hoạt động, trạng thái của loài vật và sự vật trong những câu sau :a) Con trâu ăn cỏb) Đàn bò uống nước dưới sông.c) Mặt trời tỏa ánh nắng rực rỡ.(Tiếng Việt 2, tập 1, trang 67) )

Xây dựng câu hỏi/bài tập LT&C theo 4 mức độVí dụ minh họa : kiểm tra kiến thức tiếng ViệtMức 2 (Hiểu) : Tìm kiếm, đối chiếu, phân loại, miêu tả, giải thích được đơn vị kiến thức tiếng Việt đã được học (tính đến thời điểm kiểm tra).Ví dụ: Tìm thêm những từ cùng nghĩa với từ ước mơ :a) Bắt đầu bằng tiếng ước. M : ước muốnb) Bắt đầu bằng tiếng mơ. M : mơ ước(Tiếng Việt 4, tập 1, trang 87)

Xây dựng câu hỏi/bài tập LT&C theo 4 mức độVí dụ minh họa : kiểm tra kiến thức tiếng ViệtMức 3 (Vận dụng trực tiếp) : Sử dụng được đúng các đơn vị kiến thức tiếng Việt đã được học để tạo ra lời nói.Ví dụ:Đặt câu với mỗi quan hệ từ : và, nhưng, của. (Tiếng Việt 5 – tập một, trang 111)

Xây dựng câu hỏi/bài tập LT&C theo 4 mức độVí dụ minh họa : kiểm tra kiến thức tiếng ViệtMức 4 (Vận dụng trong tình huống mới hoặc có nội dung thực tiễn) : Lựa chọn để sử dụng một đơn vị, kiểu loại đơn vị, một bộ phận nào đó một cách nghệ thuật hoặc vận dụng các đơn vị kiến thức tiếng Việt đã được học để tạo ra lời nói phù hợp với tình huống giao tiếp.Ví dụ : Dựa theo ý một khổ thơ trong bài Sắc màu em yêu, hãy viết một đoạn văn miêu tả màu sắc đẹp của những sự vật mà em yêu thích. Trong đoạn văn, chú ý sử dụng những từ đồng nghĩa.(Tiếng Việt 5, tập một, trang 33)

GỢI Ý ĐỔI MỚI DẠY LUYỆN TỪ VÀ CÂUHoạt động 3 Thầy/cô hãy chọn 1 bài Luyện từ và câu trong SGK môn Tiếng Việt, xây dựng câu hỏi/bài tập theo 4 mức độ cho bài Luyện từ và câu đó.Đổi mới PPDH: Tự khám phá, phát hiện kiến thức;Tăng cường thực hành, luyện tập;Vận dụng kiến thức đã học để dùng từ, đặt câu, viết đoạn.GỢI Ý ĐỔI MỚI DẠY LUYỆN TỪ VÀ CÂUGỢI Ý ĐỔI MỚI DẠY HỌC ĐỌC Hoạt động 4 Theo thầy/cô, có thể đổi mới những gì về kế hoạch, nội dung, phương pháp,… dạy học Tập đọc ?GỢI Ý ĐỔI MỚI DẠY HỌC TẬP ĐỌC1. Về kế hoạch dạy học:Điều chỉnh các bài Tập đọc (giữa các tuần học) phù hợp với yêu cầu dạy học tạo lập văn bản, luyện từ và câu, … (nếu cần thiết).

Ví dụ minh họa : Kiểm tra kĩ năng đọc hiểuMức 1 (Biết) : Câu hỏi yêu cầu HS dựa vào từ ngữ, hình ảnh, chi tiết trong bài để trả lời.Ví dụ :(1) Cậu bé thấy bà cụ đang làm gì ? (Bài “Có công mài sắt, có ngày nên kim” – TV lớp 2)(2) Tìm những chi tiết miêu tả cảnh tượng sôi động của hội vật ? (Bài “Hội vật” – TV lớp 3)

Xây dựng câu hỏi/bài tập đọc hiểu theo 4 mức độ Ví dụ minh họa : Kiểm tra kĩ năng đọc hiểuMức 2 (Hiểu) : Câu hỏi yêu cầu HS phải dựa vào ngữ cảnh, suy luận để cắt nghĩa.Ví dụ: (1) Vì sao cô giáo khen Mai ?(Chiếc bút mực – Tiếng Việt 2)(2) Tại sao Mồ Côi bảo bác nông dân xóc 2 đồng bạc đủ 10 lần ?(Bài “Mồ Côi xử kiện” – Tiếng Việt 3)

THỰC TRẠNG DẠY HỌC TẬP LÀM VĂNHoạt động 6 Thầy/cô, hiện nay giáo viên thường gặp những khó khăn gì khi dạy học Tập làm văn ?THỰC TRẠNG DẠY HỌC TẬP LÀM VĂN– Một số GV thực hiện chương trình và SGK – phần TLV chưa linh hoạt, sáng tạo, chưa biết cách điều chỉnh nội dung dạy học phù hợp với HS và điều kiện dạy học. VD : điều chỉnh đề bài TLV, điều chỉnh các câu hỏi/BT, điều chỉnh kế hoạch dạy học, điều chỉnh cách đánh giá sản phẩm của HS,…– Chưa linh hoạt đổi mới PPDH và hình thức tổ chức dạy học. Chưa quan tâm đến việc tăng cường vốn sống cho HS. Chưa hiểu rõ mối quan hệ tích hợp giữa dạy học TLV với dạy học các phân môn khác trong môn Tiếng Việt. Tổ chức dạy học TLV chưa phù hợp với quy trình sản sinh văn bản. Chưa thực sự tâm huyết khi dạy học/chấm/chữa bài TLV cho HS. Chưa dành thời gian đủ và thích hợp để RLKN làm văn cho HS…

ĐỔI MỚI DẠY HỌC TẬP LÀM VĂN2. Điều chỉnh thời lượng dạy học TLV : Tăng thời lượng cho viết đoạn/bài bằng cách nào ?+ Sử dụng buổi học thứ 2 (đối với lớp học 2 buổi/ngày).+ Giảm bớt thời lượng của kiểu bài nghe – kể ở lớp 2, 3.+ Ngoài ra, có thể tinh giản những đơn vị kiến thức trùng lặp giữa các lớp, tập trung vào những kĩ năng thực hành, chú trọng mức độ phát triển so với nội dung kiến thức đã học. Hoặc có thể rà soát để tổ chức, sắp xếp lại một số nội dung học tập nhằm giảm sự trùng lặp không cần thiết, tạo thuận lợi cho dạy học phát triển năng lực HS.

ĐỔI MỚI DẠY HỌC TẬP LÀM VĂN6. Điều chỉnh cách chấm bài TLV :– Xây dựng thái độ tôn trọng/chấp nhận cách nhìn, cách nghĩ, cách cách tả, cách kể của cá nhân HS trong bài TLV.– Xây dựng hướng dẫn chấm với những chỉ số đánh giá về : cấu trúc bài viết, nội dung, kĩ năng, cảm xúc, kĩ năng sử dụng ngôn từ, sáng tạo, …– Chỉ rõ những ưu điểm/hạn chế trong bài làm của HS.– Hướng dẫn HS cách chữa bài, không chữa thay/làm thay HS.

GỢI Ý ĐỔI MỚI DẠY VIẾT

GỢI Ý ĐỔI MỚI DẠY HỌC TIẾNG VIỆT Hoạt động 8 Thầy/cô hãy lựa chọn xây dựng một kế hoạch dạy học môn Tiếng Việt theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Phân tích rõ những điểm thầy/cô đã điều chỉnh, thay đổi ?GỢI Ý ĐỔI MỚI DẠY HỌC TIẾNG VIỆT Hoạt động 10 Thầy/cô hãy tổ chức dự giờ, phân tích giờ dạy theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong môn Tiếng Việt.Trân trọng cảm ơn quý thầy, cô!01212999177

Bàn Về Dạy Học Môn Tiếng Việt Ở Tiểu Học Theo Hướng Tiếp Cận Năng Lực

Để chuẩn bị cho học sinh học lên trung học cơ sở, mục tiêu trọng tâm trong dạy học Tiếng Việt ở cấp tiểu học là phát triển kỹ năng, trong đó, điểm nhấn là các kỹ năng đọc- hiểu và kỹ năng viết (bao gồm viết chính tả và làm văn). Vậy, mục tiêu phát triển kỹ năng nghe, nói, đọc, viết trong dạy học tiếng Việt ở nhà trường tiểu học có phải là dạy học phát triển năng lực không?

1.Năng lực tiếng Việt được hiểu là năng lực tiếp nhận văn bản và năng lực sản sinh văn bản(bao gồm văn bản nói và văn bản viết). Năng lực tiếp nhận văn bản bao gồm nghe – hiểu và đọc – hiểu.

Tuy nhiên, vì quan niệm cho rằng học sinh học tiếng Việt với tư cách là tiếng mẹ đẻ nên chúng ta thường nặng về phát triển khả năng đọc – hiểu văn bản của học sinh; trong khi năng lực nghe – hiểu (như nghe để có ý kiến phản hồi hay nghe người khác đọc, kể câu chuyện và kể lại hoặc tìm hiểu nội dung câu chuyện chẳng hạn) nhiều khi xuất hiện với tần suất khá lớn trong cuộc sống mỗi người nhưng lại chưa được chú ý, kể cả trong dạy học và đánh giá.

Năng lực sản sinh văn bản bao gồm năng lực nói, trình bày một vấn đề trước người khác hay thuyết trình trước đông người và năng lực viết (viết đúng chính tả, đúng ngữ pháp và trình bày được một văn bản viết có nội dung đúng mục đích hoặc theo yêu cầu của người khác như một đề tập làm văn chẳng hạn). Năng lực tiếp nhận văn bản và sản sinh văn bản thường có quan hệ nhân quả: người hay chú ý lắng nghe người khác nói hay tập trung đọc văn bản viết thường có khả năng nói, viết tốt hơn và ngược lại.

2. Dạy tiếng Việt theo hướng tiếp cận năng lực là dạy những gì?

Môn Tiếng Việt ở tiểu học (trừ phần học vần lớp 1) được phân chia thành các phân môn: Tập đọc, Tập viết- Chính tả, Luyện từ và câu và Tập làm văn. Mỗi phân môn bên cạnh chức năng chung của môn học thường đảm nhận một mục đích chính. Phân môn Tập đọc nhằm phát triển kỹ năng đọc – hiểu; phân môn Tập viết – Chính tả hình thành kỹ năng viết chính tả (viết đúng chính tả, đúng tốc độ); phân môn Luyện từ và câu trên cơ sở cung cấp kiến thức sơ giản về từ và câu nhằm giúp học sinh dùng từ, viết câu, đoạn văn đúng quy tắc ngữ pháp tiếng Việt; phân môn Tập làm văn là phân môn thực hành tổng hợp nhằm rèn luyện kỹ năng tạo văn bản nói và viết cho học sinh.

Đối với các phân môn, mục tiêu kỹ năng trên suy đến cùng là hướng tới phát triển năng lực sử dụng tiếng Việt cho người học – năng lực tiếp nhận lời nói và năng lực sản sinh lời nói. Dạy tiếng Việt theo hướng phát triển năng lực chính là quá trình dạy học hướng tới hình thành và phát triển các năng lực sử dụng tiếng Việt cho người học trong môi trường học tập và đời sống theo lứa tuổi.

Từ nhận thức trên, chúng ta cần có định hướng về tổ chức dạy học các phân môn Tiếng Việt sao cho môn học này hướng tới phát triển tốt nhất các năng lực sử dụng tiếng Việt đối với học sinh tiểu học.

Trước hết, bàn về dạy học sinh phát triển năng lực tiếp nhận lời nói, bao gồm năng lực nghe – hiểu và năng lực đọc – hiểu.

Dạy học sinh nghe – hiểu thông qua quá trình dạy học: nghe – nhắc lại lời giảng của giáo viên hoặc nghe – nhắc lại hoặc nhận xét về lời nói của bạn hoặc nghe người khác kể một câu chuyên rồi kể lại hoặc giới thiệu cho người khác,… Dạy kỹ năng nghe hiểu được thực hiện thông qua các phân môn đặc trưng như Kể chuyện và có thể thực hiện qua tất cả các hoạt động dạy học môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác.

Các yêu cầu cơ bản về kỹ năng nghe hiểu bao gồm từ rèn luyện học sinh thói quen tập trung lắng nghe khi người khác nói và có phản hồi chính xác. Tập cho học sinh có thói quen tập trung nghe, lĩnh hội thông tin từ lời nói của người khác và có phản hồi tích cực là yêu cầu quan trọng trong dạy kỹ năng nghe ở trường tiểu học. Điều này giúp cho học sinh có thói quen lĩnh hội tích cực từ lời nói để bồi đắp thêm kiến thức cho bản thân mình.

Dạy đọc – hiểu trong môn Tiếng Việt là dạy kỹ năng tiếp nhận văn bản, một trong những kỹ năng cơ bản và quan trong bậc nhất trong dạy học Tiếng Việt. Vì nó ảnh hưởng tới chất lượng học tập môn Tiếng Việt và các môn học khác; ảnh hưởng tích cực tới cuộc sống sau này trong một xã hội mà việc “học suốt đời” được xem là cứu cánh cho sự thành công của mỗi con người.

Dạy đọc – hiểu là dạy học sinh kỹ năng tiếp nhận, lĩnh hội thông tin qua văn bản (văn bản giấy và văn bản điện tử). Trong thời đại thông tin bùng nổ, vốn tri thức, vốn sống của con người được tích lũy chủ yếu từ hoạt động đọc. Vì vậy, dạy học sinh có thói quen đọc, có phương pháp lĩnh hội thông tin qua hoạt động đọc trở nên thiết yếu trong dạy Tập đọc. Từ đó, hướng tới văn hóa đọc cho mỗi cá nhân và cộng đồng.

3. Phải dạy Tập đọc thế nào để phát triển được năng lực đọc hiểu cho học sinh?

Muốn phát triển năng lực đọc hiểu, trước hết phải dạy học sinh kỹ năng đọc thành tiếng với các yêu cầu trọng tâm là đọc tròn vành rõ tiếng các âm tiếng Việt, đọc đúng tốc độ để có thể lĩnh hội được nội dung văn bản và biết ngắt nghỉ đúng chỗ. Đối với các văn bản nghệ thuật, lên lớp 4, 5 có thể dạy các em làm quen với cách đọc diễn cảm ở những đoạn giàu cảm xúc. Những yêu cầu cơ bản này phải được thực hiện thuần thục từ các lớp đầu cấp, nhất là lớp Một.

Lên các lớp trên, có thể từ lớp 3, chủ yếu dạy các em đọc thầm và hiểu văn bản theo chỉ dẫn của giáo viên. Như vậy, nhiệm vụ chủ yếu của việc đọc trong dạy Tập đọc ở lớp trên không còn là đọc to, rõ, lưu loát mà tiến dần tới đọc có mục đích: đọc để hiểu được nội dung trong đoạn văn, đoạn thơ. Trong các giờ Tập đọc, giáo viên thường cắt khúc các hoạt động luyện đọc và tìm hiểu bài thành 2 hoạt động tách bạch nhau. Như vậy sẽ lãng phí thời gian mà hiệu quả không cao. Để khắc phục hạn chế này, theo chúng tôi, nên thiết kế lại giờ Tập đọc theo các hoạt động đọc có mục đích. Có thể theo trình tự sau:

Bước 1. Đọc khởi động: mục đích của hoạt động này là giúp học sinh tiếp cận văn bản ban đầu qua giọng đọc của giáo viên. Bằng giọng đọc tryền cảm của giáo viên sẽ truyền được cảm hứng tiếp cận văn bản cho học sinh.

Bước 2. Đọc hiểu: Giáo viên có thể chia đoạn để giao nhiệm vụ đọc hiểu tùy theo khả năng của học sinh từng khối lớp, vùng miền và độ dài của văn bản.Khi đọc đoạn văn bản, giáo viên cần giao nhiệm vụ cụ thể để định hướng mục đích đọc hiểu cho học sinh. Nhiệm vụ chuyển đến học sinh có thể bằng vài ba câu hỏi gợi mở hoặc phiếu học tập cho mỗi nhóm học tập để các em vừa đọc, vừa tập trung vào các câu, từ, nhân vật, hình ảnh hoặc ý chính của đoạn để thực hiện nhiệm vụ học tập.

Những sự vật nào trong đoạn văn được tác giả nhắc đến?

Liệt kê những sự vật được tác giả miêu tả bằng màu vàng: Mặt Trời: có màu vàng hơn mọi khi.

Đọc đoạn văn trên, ta có cảm giác bức tranh tác giả vẽ ra vào ngày mùa nổi bật nhất là màu gì?

Hãy giới thiệu một cảnh vật ở trường hoặc nơi em ở có màu vàng và đặt câu để miêu tả lại cảnh vật đó.

(Những yêu cầu trên, giáo viên có thể cho vào phiếu học tập cho mỗi nhóm hoặc viết sẵn lên bảng nhóm để cả lớp quan sát)

Các câu hỏi, nhiệm vụ học tập được giao cần biên soạn theo 3 mức độ: Tái hiện – Hiểu – Vận dụng nhằm giúp các đối tượng học sinh đều có thể tham gia bài học theo khả năng của mình.

Bước 3. Đọc hiểu cả bài:

Sau khi kết thúc phần đọc hiểu từng đoạn, giáo viên cho học sinh đọc lại cả bài một hai lần để nắm được nội dung cơ bản hoặc ý nghĩa của văn bản bằng 1 đến 2 câu hỏi.

Ví dụ: Bài “Bài ca về trái đất”, giáo viên có thể giao nhiệm vụ cho học sinh: các em đọc thầm cả bài thơ và trả lời các câu hỏi sau:

Vì sao tác giả nói “Trái đất này là của chúng ta”?

Hãy kể xem, chúng ta đang làm gì để bảo vệ trái đất của chính mình?

Kết thúc bài, giáo viên có thể cho một số học sinh đọc diễn cảm bài thơ; học sinh hoặc giáo viên và cả lớp hát bài hát “Trái đất này là của chúng mình”

Như vậy, theo cách trên, chúng ta giải được bài toán về dạy Tập đọc hướng tới phát triển năng lực là thế nào.

Tiết Dạy Minh Họa Sgk Lớp 1 Bộ Sách Cùng Học Để Phát Triển Năng Lực

Bài dạy minh họa bộ sách Cùng học để phát triển năng lực

Tiết dạy minh họa SGK lớp 1 bộ sách Cùng học để phát triển năng lực môn Toán, Tiếng Việt, Đạo đức, Mỹ thuật, Âm nhạc, TNXH là tài liệu bổ ích để thầy cô nhằm phục vụ cho công tác dạy và học cho năm học mới.

Bài dạy minh họa bộ sách Cùng học để phát triển năng lực

1. Bài dạy minh họa môn Tiếng Việt lớp 1 sách Cùng học để phát triển năng lực

Bài học 7B: AU ÂU (tiết 1)

2. Bài dạy minh họa môn Toán lớp 1 sách Cùng học để phát triển năng lực

Bài học DÀI HƠN, NGẮN HƠN

3. Bài dạy minh họa môn Âm nhạc lớp 1 sách Cùng học để phát triển năng lực

Chủ đề 6: Gia đình yêu thương (tiết 1)

4. Bài dạy minh họa môn Mỹ thuật lớp 1 sách Cùng học để phát triển năng lực

Chủ đề 1: NGÔI NHÀ VÀ NHỮNG HÌNH KHỐI QUEN THUỘC (tiết 1)

5. Bài dạy minh họa môn Hoạt động trải nghiệm lớp 1 sách Cùng học để phát triển năng lực

Chủ để 15 Đồ dùng của em là bạn em – (tiết 1)

6. Bài dạy minh họa môn Đạo đức lớp 1 sách Cùng học để phát triển năng lực

7. Bài dạy minh họa môn TNXH lớp 1 sách Cùng học để phát triển năng lực

Bài 14: TẾT VÀ LỄ HỘI NĂM MỚI (tiết 1)

8. Bài dạy minh họa môn GDTC lớp 1 sách Cùng học để phát triển năng lực

Bộ sách Cùng học để phát triển năng lực được biên soạn với mục tiêu trang bị những kiến thức nền tảng có thể phát triển phẩm chất và năng lực HS. Những nhiệm vụ học tập trong từng bài học góp phần phát triển năng lực chung, đồng thời phát triển năng lực chuyên môn.

Bộ sách được biên soạn ở lớp 1 có mức độ tiếp cận kiến thức hợp lý, vừa đáp ứng yêu cầu của Chương trình, vừa phù hợp với sức học của đại đa số HS ở tất cả các vùng miền, đảm bảo sự thân thiện, gần gũi với mọi HS, GV.

Cùng học để phát triển năng lực được thiết kế theo mô hình hoạt động. Trong đó, mỗi bài trong sách HS được thể hiện qua các hoạt động, sách GV là tài liệu hướng dẫn tổ chức các hoạt động đó. Bộ sách cũng góp phần đổi mới phương pháp dạy và học, giúp HS thực hiện nhiệm vụ học hiệu quả, giúp GV tổ chức tốt các hoạt động học tập cũng như các hoạt động kiểm tra, đánh giá học tập của HS.

Mời các bạn tham khảo các giáo án khác trong phần Dành cho giáo viên của mục Tài liệu.