Xem Nhiều 3/2023 #️ Thuyết Minh Bảo Tàng Dân Tộc Học Việt Nam Dành Cho Hướng Dẫn Viên Du Lịch # Top 6 Trend | Lienminhchienthan.com

Xem Nhiều 3/2023 # Thuyết Minh Bảo Tàng Dân Tộc Học Việt Nam Dành Cho Hướng Dẫn Viên Du Lịch # Top 6 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Thuyết Minh Bảo Tàng Dân Tộc Học Việt Nam Dành Cho Hướng Dẫn Viên Du Lịch mới nhất trên website Lienminhchienthan.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam vừa là một cơ sở khoa học vừa là một trung tâm văn hóa, có tính khoa học cao và tính xã hội rộng lớn. Bảo tàng có các chức năng như sau: Nghiên cứu khoa học, sưu tầm, kiểm kê, bảo quản, phục chế, trưng bày, trình diễn, để giới thiệu và giáo dục về những giá trị lịch sử – văn hóa của các dân tộc trong và ngoài nước; cung cấp tư liệu nghiên cứu về các dân tộc; đào tạo cán bộ nghiên cứu, nghiệp vụ, quản lý về nhân học bảo tàng và bảo tàng dân tộc học.

Quá trình hình thành

Loại hình bảo tàng dân tộc học rất quan trọng và có ý nghĩa to lớn về nhiều phương diện trên qui mô quốc gia cũng như ở từng địa phương, bởi vì Việt Nam có tới 54 dân tộc. Cho nên, ngay từ năm 1981 Nhà nước đã chủ trương hình thành một Bảo tàng Dân tộc học đặt tại thủ đô Hà Nội. Công trình Bảo tàng Dân tộc học được chính thức phê duyệt luận chứng kinh tế – kỹ thuật ngày 14-12-1987 và được Nhà nước cấp đất để xây dựng: năm 1987 – 2.500m2, năm 1988 – 9.500m2, đến năm 1990 Thủ tướng Chính phủ có quyết định giao toàn bộ 3,27 ha.

Bảo tàng bắt đầu được cấp vốn chuẩn bị đầu tư vào năm 1986. Công việc xây dựng móng triển khai từ cuối năm 1989. Theo luận chứng kinh tế – kỹ thuật, tổng kinh phí để xây dựng là 27 tỷ đồng, chưa kể khoảng 4 tỷ đồng cho việc sưu tầm hiện vật, tư liệu và tổ chức trưng bày

Suốt nhiều năm, Ban quản lý công trình Bảo tàng và Phòng Bảo tàng là một bộ phận của Viện Dân tộc học. Ngày 24-10-1995, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định về việc thành lập Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam (trực thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam).

Ngày 12 tháng 11 năm 1997, đúng vào dịp Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ 7 các nước có sử dụng tiếng Pháp họp tại Hà Nội, Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình và Tổng thống Cộng hòa Pháp Jacques Chirac đã cắt băng khai trương Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.

Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam tọa lạc bên đường Nguyễn Văn Huyên ở quận Cầu Giấy, cách trung tâm thủ đô Hà Nội chừng 8 km. Đây vốn là vùng đất ruộng của cư dân sở tại. Tất cả các công trình cơ sở hạ tầng đều mới được xây dựng cùng với quá trình hình thành Bảo tàng. Đường Nguyễn Văn Huyên và đường Nguyễn Khánh Toàn chạy qua phía trước Bảo tàng cũng đều mới được xây dựng.

Công trình Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam do kiến trúc sư Hà Đức Lịnh (người dân tộc Tày, thuộc Công ty Xây dựng nhà ở và công trình công cộng, Bộ Xây dựng) thiết kế. Nội thất công trình do Bà kiến trúc sư Véronique Dollfus (người Pháp) thiết kế.

Trong khoảng một chục năm qua, Bảo tàng có 2 khu vực chính. Một khu bao gồm nhà trưng bày, văn phòng và cơ sở nghiên cứu, thư viện, hệ thống kho bảo quản, hệ thống các bộ phận kỹ thuật, hội trường… Các khối nhà liên hoàn với nhau, có tổng diện tích 2.480m2, trong đó 750 m2 dùng làm kho bảo quản hiện vật. Khu thứ 2 là khu trưng bày ngoài trời, rộng khoảng 2 ha, bắt đầu xây dựng năm 1998 và hoàn thành công trình trưng bày cuối cùng trong năm 2006.

Bên cạnh đó, hiện nay Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam được cấp thêm hơn 1 ha đất, nâng diện tích khuôn viên của Bảo tàng lên gần 4,4 ha. Tại phần đất mở rộng này, từ giữa năm 2007 bắt đầu xây dựng một tòa nhà 4 tầng, sẽ mang tên “nhà Cánh diều”, để giới thiệu về văn hóa các dân tộc ngước ngoài, chủ yếu là các dân tộc ở Đông Nam Á. Đây sẽ là khu trưng bày thứ 3 của Bảo tàng.

Mười năm đầu mở cửa, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã đón tiếp khoảng 1.200.000 lượt khách tham quan, trong đó có trên 530.000 khách quốc tế đến từ hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ. Số du khách đến Bảo tàng ngày càng gia tăng, năm 2007 đạt 337.000 lượt người, trong 6 tháng đầu năm 2008 – hơn 210.000 lượt người…

Những điểm mới

Có thể nói, Bảo tàng này là một trung tâm trưng bày và lưu giữ quí giá về văn hoá của đủ 54 dân tộc. Tính đến năm 2000 đã tích luỹ được 15.000 hiện vật, 42.000 phim (kèm ảnh màu), 2190 phim dương bản, 273 băng ghi âm các cuộc phỏng vấn, âm nhạc, 373 băng video và 25 đĩa CDRom . Đồng thời, đây là một trung tâm nghiên cứu dân tộc học với những chuyên gia về các dân tộc, các lĩnh vực chuyên ngành. Người ta đến đây không chỉ để tham quan, giải trí, mà còn để tìm hiểu, nghiên cứu về các dân tộc, các sắc thái văn hoá đa dạng và đặc sắc của từng tộc, từng vùng cũng như những giá trị truyền thống chung của các dân tộc. Vì vậy, từ nhân dân khắp các miền trong nước đến khách nước ngoài, từ học sinh, sinh viên đến nhà khoa học đều có thể tìm thấy sự hấp dẫn ở đây.

Hiện vật của BTDTHVN không phải chỉ là những cổ vật đắt tiền, mà chủ yếu bao gồm nhiều thứ rất bình thường trong đời sống hàng ngày của người dân như: con dao, cái gùi, chiếc khố, ống sáo, cái tẩu, tấm chiếu… Chúng phản ánh mọi khía cạnh văn hoá vật thể và phi vật thể của cộng đồng dân cư, thể hiện tiêu biểu mọi mặt cuộc sống và mọi sáng tạo văn hoá của họ. Bởi vậy, trong Bảo tàng này, hiện vật rất phong phú, có thể hình thành được nhiều sưu tập theo các tiêu chí khác nhau. Bảo tàng có 54 bộ sưu tập về từng dân tộc, như: về người Thái, về người Hmông, về người Gia Rai… Phân chia theo công dụng, có các sưu tập về y phục, các đồ trang sức, về nông cụ, về ngư cụ, về vũ khí, về đồ gia dụng, về nhạc cụ… Lại có tập hợp riêng về các hiện vật tôn giáo-tín ngưỡng, cưới xin, ma chay hay nhiều hoạt động tinh thần, xã hội khác. Trên cơ sở đó, Bảo tàng tổ chức trưng bày và xuất bản sách ảnh theo các dạng thức sưu tập khác nhau, bổ ích và lý thú đối với mọi đối tượng, mọi trình độ học vấn.

BTDTHVN được triển khai theo nhiều quan niệm mới phù hợp với sự tiến bộ khoa học và kỹ thuật. Trước hết đó là quan niệm Bảo tàng dành cho tất cả mọi người. Quan niệm này được thể hiện trong cả kiến trúc lẫn trong kỹ thuật trưng bày. Bảo tàng có lối đi riêng thích hợp cho thương binh hay những người khuyết tật phải di chuyển bằng xe đẩy và có thang máy để họ lên xem tầng hai. Các bậc lên xuống đều có tay vịn cho người già yếu tiện đi lại. Trong trưng bày, kế thừa kinh nghiệm của nhiều bảo tàng trên thế giới, BTDTHVN đã không chọn chữ in mà chọn chữ viết thường cho tất cả các bài viết để người xem ở các lứa tuổi có thể đọc dễ dàng và không mỏi mắt. Các tấm pa nô cũng được treo ở tầm cao có tính toán phù hợp với cả lứa tuổi thiếu nhi. Phần trưng bày của Bảo tàng có hiện vật, có ảnh, bài viết, có băng hình, có các tư liệu tham khảo… mà người xem tuỳ trình độ và nhu cầu khác nhau có thể khai thác nhiều hay ít.

Phần trưng bày thường xuyên của Bảo tàng hiện nay chỉ trưng bày một số lượng hiện vật hạn chế: gần 700 hiện vật khối và 280 ảnh. Quan điểm chủ đạo là không tham đưa quá nhiều hiện vật vào trong các tủ trưng bày, bởi sẽ gây cảm giác thừa ứ hoặc khó tiếp cận được một cách tập trung.

Phương pháp bố trí nội dung trong trưng bày của Bảo tàng là kết hợp giữa cộng đồng ngôn ngữ và vùng lãnh thổ. Hầu hết hiện vật trưng bày là hiện vật gốc, được lựa chọn và chủ yếu phô bày trong 97 tủ kính lớn nhỏ khác nhau: có loại tủ 1 mặt, có loại 4 mặt, có tủ chứa nhiều hiện vật, có tủ chỉ đặt 1 hoặc vài ba hiện vật. Trong số đó, hơn 50 tủ có bài viết giới thiệu kèm theo. Mỗi hiện vật đều có phụ đề ghi rõ tên gọi hiện vật, đồng thời cho biết dân tộc và xứ sở sản sinh ra nó. Bảo tàng cũng sử dụng manơcanh, bản đồ, biểu đồ, sách cứng, ảnh, phim video, băng âm thanh, một số mô hình và 33 pa nô trong trưng bày. Mặc dù diện tích không lớn, nhưng trong nhà vẫn có một số điểm nhấn được trưng bày theo hình thức tái tạo về một tập tục hay một nét văn hoá nào đó. Người xem có thể hiểu được nội dung tái tạo không chỉ thông qua hệ thống hiện vật, mà còn có cả phim video nữa.

Bảo tàng cố gắng tìm các giải pháp kỹ thuật hiện đại trong phương pháp thể hiện trưng bày như việc sử lý ánh sáng, dùng đèn chuyên dụng chiếu vào từng hiện vật hay từng bộ phận của hiện vật làm nổi lên vẻ đẹp cần gây sự chú ý quan sát. Trong điều kiện hiện nay, Bảo tàng đã lựa chọn phương án thông khí cho toàn bộ khu trưng bày. Từng tủ kính đều được lắp hệ thống thông khí để đảm bảo cho hiện vật không bị mốc.

Đối với khu ngoài trời, do đất hẹp nên Bảo tàng chỉ có thể dựng 9 công trình kiến trúc dân gian cùng một số hiện vật lớn như: Nhà rông của người Ba Na, nhà sàn dài của người Ê Đê, nhà sàn của người Tày, nhà nửa sàn nửa đất của người Dao, nhà trệt lợp ván pơmu của người Hmông, nhà ngói của người Việt, nhà trệt của người Chăm, nhà trình tường của người Hà Nhì, nhà mồ của người Gia Rai. Xen giữa các công trình kiến trúc dân gian đó là cây xanh các loại, các lối đi ngoằn ngoèo và cả con suối uốn khúc chảy suốt 4 mùa, có cầu bắc nối đôi bờ. Những trưng bày ở phần này đang từng bước được thực hiện.

Với không gian thoáng và cảnh quan đẹp, Bảo tàng bao gồm 2 khu vực chính: khu vực trong nhà và ngoài trời do kiến trúc sư Hà Đức Lịnh (người dân tộc Tày) thiết kế, nội thất công trình do kiến trúc sư người Pháp đảm nhiệm. Tại đây hiện đang lưu giữ khoảng 15.000 hiện vật, 42.000 phim (kèm theo ảnh), hàng trăm băng video, cassette trưng bày nhiều kỷ vật phản ánh mọi mặt đời sống sinh hoạt, phong tục tập quán của 54 dân tộc anh em, tái tạo thành công những sinh hoạt tôn giáo tiêu biểu cho từng tộc người…

Nơi đây không chỉ là trung tâm lưu giữ và trưng bày quý giá về văn hóa mà còn là nơi tổ chức nghiên cứu khoa học, sưu tầm, phân loại, đánh giá, bảo quản, phục chế, trưng bày, giới thiệu, khai thác các giá trị lịch sử, văn hóa về phương diện dân tộc học của các dân tộc anh em.

Khu vực bên trong bao gồm các khối nhà trưng bày, cơ sở nghiên cứu, thư viện, hệ thống kho bảo quản… Phần trưng bày trong nhà chiếm trọn tòa nhà 2 tầng có dáng mô phỏng hình chiếc trống đồng. Các khối nhà liên hoàn với nhau, mỗi gian trưng bày của từng tộc người thể hiện trong việc trưng bày hiện vật theo lối kể chuyện. Câu chuyện được liên kết chặt chẽ, xuyên suốt với nhau bằng nhóm hiện vật, luôn thay đổi sự hấp dẫn, thỏa mãn nhu cầu khác nhau của người xem. Mỗi gian trưng bày là một câu chuyện lớn phản ánh cuộc sống muôn màu muôn vẻ của đồng bào các dân tộc Việt Nam.

Hiện vật được trưng bày trong bảo tàng rất phong phú, từ y phục, đồ trang sức, vật dụng quen thuộc trong sinh hoạt hàng ngày của các dân tộc như gùi, dao, cuốc, nông cụ… Mỗi hiện vật trong bảo tàng đều có phụ đề ghi rõ tên gọi, nguồn gốc xuất xứ, tư liệu tham khảo. Các sinh hoạt tinh thần, tôn giáo, tín ngưỡng như ma chay, cưới hỏi được thể hiện dưới những thước phim video sinh động và cuốn hút, có tác dụng phổ biến kiến thức rất hiệu quả. Các hiện vật ở đây được trang trí thật đơn giản, không cầu kỳ, để người xem có thể cảm thụ nhiều nhất cái hay, cái đẹp, cái tinh tế của mỗi hiện vật rất bình dị, đời thường.

Khách được tham quan các hiện vật được trưng bày tại khu trưng bày thường xuyên, khu trưng bày chuyên đề, khu trưng bày lưu động và khu trưng bày ngoài trời. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam còn là điểm dã ngoại ngoài trời thú vị đối với những gia đình có con nhỏ trong những ngày cuối tuần. Khu trưng bày ngoài trời với những mẫu nhà đặc trưng của mỗi dân tộc thực sự là nét sinh động cho việc học tập, nghiên cứu của các em học sinh cũng như những người nghiên cứu, tìm hiểu về phong tục, tập quán của các dân tộc.

Hiện tại, bảo tàng mới dựng được 9 công trình kiến trúc dân gian cùng một số hiện vật lớn như nhà rông của người Ba Na, nhà sàn dài của người Ê Đê, nhà trình tường của người Hà Nhì… Giữa các ngôi nhà là những lối đi nhỏ bên những con suối uốn khúc, những cây cầu nhỏ tạo không gian và phong cảnh rất gần gũi với đời sống của từng tộc người Việt Nam. Đến đây, du khách không chỉ tham quan, giải trí mà còn nghiên cứu, tìm hiểu về các dân tộc, bản sắc văn hóa của từng dân tộc cũng như giá trị truyền thống chung của các dân tộc.

Đặc biệt, chương trình biểu diễn múa rối nước đặc sắc của các phường rối Miền Bắc được diễn ra thường xuyên ở đây. Du khách không những được xem các nghệ sỹ biểu diễn múa rối mà còn được giao lưu với họ, được tự tay điều khiển con rối dưới nước rất thú vị. Các lớp học thủ công, thêu vải cho học sinh thường xuyên được tổ chức vào các dịp hè giúp các em vừa vui chơi giải trí vừa có thể học được nhiều kỹ năng thêu cơ bản.

Bảo tàng mở cửa đón khách tham quan tất cả các ngày trong tuần, trừ thứ hai. Với các hoạt động phong phú và đa dạng, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam là một địa chỉ lý tưởng cho những du khách muốn nghỉ ngơi, thư giãn, thưởng thức nghệ thuật và khám phá về văn hóa Việt Nam. Bảo tàng rất thích hợp cho ngày nghỉ cuối tuần của các gia đình.

Lịch sử hình thành và quá trình hoạt động

Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam được thành lập theo quyết định của thủ tướng chính phủ ngày 24 tháng 10 năm 1995. Bảo tàng được xây dựng trong 2 năm và chính thức khánh thành ngày 12 tháng 11 năm 1997.

Bảo tàng được thiết kế bởi kiến trúc sư Hà Đức Lịnh. Phần nội thất do bà kiến trúc sư người Pháp Véronique Dollfus thiết kế. Bảo tàng gồm hai khu vực chính: trong nhà và ngoài trời. Khu vực trong nhà bao gồm các khối nhà: nhà trưng bày, cơ sở nghiên cứu, thư viện, hệ thống kho bảo quản, hệ thống các bộ phận kỹ thuật, hội trường… Các khối nhà này liên hoàn với nhau, có các lối đi hợp lý, với tổng diện tích 2.480m2, trong đó 750 m2 dành cho kho bảo quản hiện vật. Khu trưng bày ngoài trời đang tiếp tục được hoàn thiện.

Đây là một trong những bảo tàng có hệ thống sưu tập hiện vật phong phú, tầm cỡ khu vực và quốc tế.

Trong những năm qua, bảo tàng đã có nhiều hoạt động sưu tầm hiện vật và phổ biến các giá trị văn hóa vật thể – phi vật thể của các dân tộc Việt Nam thông qua các cuộc trưng bày, không chỉ tại bảo tàng mà còn tham gia các hoạt động trưng bày chuyên đề và trình diễn tại nhiều quốc gia như Mỹ, Canada, Bỉ, Áo…

Đặc điểm của bảo tàng

Hiện nay, phần trưng bày trong nhà chiếm trọn toà nhà 2 tầng có dáng mô phỏng hình trống đồng- một biểu tượng chung của nền văn minh Việt Nam cũng như nhiều nước khác trong khu vực. Chiếc cầu đá granít dẫn vào toà nhà Bảo tàng tạo cảm giác như đang bước lên căn nhà sàn phổ biến ở nhiều vùng. Mặt nền sảnh lớn toà nhà này được trang trí bằng đá granit với biểu trưng theo hình thể của Tổ quốc có đất liền và biển cả.

Hiện vật của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam không phải chỉ là những cổ vật đắt tiền, mà chủ yếu bao gồm nhiều thứ rất bình thường trong đời sống hàng ngày của người dân như: con dao, cái gùi, chiếc khố, ống sáo, cái tẩu, tấm chiếu… Chúng phản ánh mọi khía cạnh văn hoá vật thể và phi vật thể của cộng đồng dân cư, thể hiện tiêu biểu mọi mặt cuộc sống và mọi sáng tạo văn hoá của họ.

Trong bảo tàng này, hiện vật rất phong phú, có thể hình thành được nhiều sưu tập theo các tiêu chí khác nhau. Bảo tàng có 54 bộ sưu tập về từng dân tộc, như: về người Thái, về người Hmông, về người Gia Rai… Phân chia theo công dụng, có các sưu tập về y phục, các đồ trang sức, về nông cụ, về ngư cụ, về vũ khí, về đồ gia dụng, về nhạc cụ… Lại có tập hợp riêng về các hiện vật tôn giáo-tín ngưỡng, cưới xin, ma chay hay nhiều hoạt động tinh thần, xã hội khác.

Nội dung trưng bày trong bảo tàng

Trưng bày trong nhà: Phần lớn diện tích trong nhà được bố trí trưng bày thường xuyên, bên cạnh đó có dành riêng một không gian để tổ chức các trưng bày nhất thời theo chuyên đề. Hiện tại, trưng bày thường xuyên trong nhà được bố trí như sau:

Tầng 1 trưng bày 2 phần chính:

Giới thiệu chung các dân tộc Việt Nam

Giới thiệu các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Việt – Mường, bao gồm: Việt (Kinh), Mường, Thổ, Chứt.

Tầng 2 chia thành các phần:

Các dân tộc Chăm, Hoa, Khơme

Ngữ hệ Nam Đảo ở miền núi: giới thiệu các dân tộc Gia Rai, Ê Đê, Raglai, Chu Ru

Nhóm ngôn ngữ Môn – Khơme ở miền núi: giới thiệu 5 dân tộc ở miền Bắc (Khơ Mú, Xinh Mun, Mảng, Kháng, Ơ Đu) và 15 dân tộc ở miền Trung – Tây Nguyên.

Nhóm ngôn ngữ Hán – Tạng: giới thiệu các dân tộc Cống, Sán Dìu, Ngái, Lô Lô, Hà Nhì, La Hủ, Phù Lá, Si La

Nhóm Hmông – Dao: giới thiệu các dân tộc Hmông, Dao, Pà Thẻn.

Nhóm Tày Thái – Kađai: giới thiệu các dân tộc Tày, Nùng, Sán Chay, Thái, Bố Y

Trưng bày ngoài trời

Đối với khu ngoài trời, do đất hẹp nên Bảo tàng chỉ có thể dựng 9 công trình kiến trúc dân gian cùng một số hiện vật lớn như:

Nhà rông của người Ba Na

Nhà sàn dài của người Ê Đê

Nhà sàn của người Tày

Nhà nửa sàn nửa đất của người Dao

Nhà trệt lợp ván pơmu của người Hmông

Nhà ngói của người Việt

Nhà trệt của người Chăm

Nhà trình tường của người Hà Nhì

Nhà mồ của người Gia Rai.

Xen giữa các công trình kiến trúc dân gian đó là cây xanh các loại, các lối đi ngoằn ngoèo và cả con suối uốn khúc chảy suốt 4 mùa, có cầu bắc nối đôi bờ. Những trưng bày ở phần này đang từng bước được thực hiện.

Những gì thuộc về đời thường thì phải trả lại đời thường

Người Pà Thẻn mặc trang phục đỏ trong mọi hoạt động là hình ảnh giả tạo, được tạo ra bởi những nhà nhiếp ảnh, nhà nghiên cứu của ta muốn nhìn họ với góc nhìn quen thuộc nhưng bất ổn. Những gì thuộc sinh hoạt đời thường thì phải trả về đời thường, qua đó sẽ cho ta cái nhìn và nhận thức mới về người Pà Thẻn thấm đậm hơn.

Thưa ông, lý do gì khiến Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam (bảo tàng) chọn trưng bày triển lãm ảnh “Người Pà Thẻn” do chỉ một nhà nhiếp ảnh người Pháp (Sebastien Laval) thực hiện?

Đây là dự án hợp tác của bảo tàng với Hiệp hội các dân tộc Á châu (thành lập đầu năm 2006, là nơi tập hợp, thu hút những nhà nghiên cứu, những nghệ sĩ yêu văn hóa các dân tộc châu Á, đặc biệt là Việt Nam). Dự án “Tiếng nói các dân tộc Việt Nam” của Hiệp hội với mục đích tái hiện khách quan phong tục truyền thống và cuộc sống hiện tại của các dân tộc thông qua ngôn ngữ hình ảnh với những hình ảnh chuyên nghiệp, chất lượng cao, đặc biệt giúp công chúng hiểu về các dân tộc ấy qua “tiếng nói” của chính họ.

Hiệp hội chọn Pà Thẻn vì dân số ước tính chỉ 4300 người, cuộc sống lại có nhiều thay đổi đáng kể, từ du canh du cư thành định cư. Nguyện vọng của họ phù hợp với tiêu chí hoạt động của bảo tàng, Sebastien Laval là người gắn bó và hiểu các dân tộc thiểu số Việt Nam, nên tôi đã đưa triển lãm ảnh về đây.

Trong ý niệm của công chúng lâu nay, người Pà Thẻn là hình ảnh những người phụ nữ trong trang phục dân tộc đỏ (mặc váy đỏ, khăn đội đầu màu đỏ), hay hình ảnh phụ nữ thổi sáo…nhưng qua triển lãm này thì sao?

Người Pà Thẻn mặc trang phục đỏ trong mọi hoạt động là hình ảnh giả tạo, được tạo ra bởi những nhà nhiếp ảnh, nhà nghiên cứu của ta muốn nhìn họ với góc nhìn quen thuộc nhưng bất ổn. Người Pà Thẻn cứ thấy khách đến, chuẩn bị chụp ảnh là họ thay quần áo. Khi Sebastien Laval đưa đến đây 100 bức ảnh, tôi đã đề nghị anh bỏ đi những bức chụp như những người khác. Vẫn có vài tấm họ mặc trang phục đỏ để chụp ảnh, còn những gì thuộc sinh hoạt đời thường thì phải trả về đời thường ấy, họ đi nương, đi gùi, ở nhà nấu bếp, chăm lợn gà… thế nào, bình thường họ ăn mặc ra sao? Qua đó sẽ cho ta cái nhìn và nhận thức mới về người Pà Thẻn thấm đậm hơn, sẽ hiểu cuộc sống của họ hơn.

Có đáng tiếc không khi trong cái nhìn chân thực ấy, công chúng sẽ thấy cả những góc đã bị “hiện đại hóa” của người Pà Thẻn?

Họ vẫn có nhu cầu giữ bản sắc riêng, nhưng thực tế cuộc sống của họ phải thay đổi. Cũng như chúng ta, trang phục truyền thống chỉ còn mặc trong những dịp lễ hội, còn lại thì chúng ta đã Âu hóa, người Pà Thẻn cũng như vậy. Đó là câu chuyện toàn cầu hóa, người Pà Thẻn ở nơi xa xôi hẻo lánh như thế cũng phải hội nhập. Cuộc sống của họ chịu nhiều thách thức, ngoài thách thức vượt sự nghèo khổ thì còn thách thức phải học theo cái gì, giữ lại cái gì là bản sắc?

Cách đây không lâu, một ngẫu nhiên thú vị xảy ra với tôi. Một cô gái trẻ 22 tuổi, người Pà Thẻn là Phù Thị Thiên (công tác tại trung tâm văn hóa huyện Quang Bình, Hà Giang) tâm huyết với văn hóa dân tộc mình, gửi thư cho giám đốc bảo tàng, bày tỏ băn khoăn rằng cô đến đây thấy bảo tàng trưng bày về người Pà Thẻn quá ít, không đầy đủ. Tôi đã ngỡ ngàng vì nhu cầu mạnh mẽ và “đúng lúc” như vậy.

Tôi đã đề nghị Hiệp hội các dân tộc Á châu mời Thiên cùng những người bạn của cô đến đây dự khai mạc, để những người Kinh chúng ta có dịp tiếp xúc trực tiếp và hiểu hơn về những suy nghĩ của họ. Vậy mà có người còn không tin họ là người “Pà Thẻn xịn”, cũng do trong nhiều sự kiện ta đã đánh tráo bằng người Kinh mặc áo dân tộc. (Cũng nói thêm là nhiều khách đến thăm đề nghị bảo tàng của tôi để những người thuyết minh mặc trang phục dân tộc sẽ ấn tượng hơn, nhưng đó không phải là sứ mệnh của bảo tàng. Tôi nghĩ điều quan trọng nhất là sự trung thực, “quần áo của ai thì người ấy mặc”).

Liệu những triển lãm ảnh như thế này có góp phần, dù nhỏ bé, giúp các dân tộc như Pà Thẻn nâng cấp cuộc sống, và bảo tồn được bản sắc riêng của họ không, thưa ông?

Chính sự có mặt ở đây sẽ giúp những cô gái Pà Thẻn có những nhận thức mới mẻ. Họ sẽ hiểu những giá trị di sản mà họ đang nắm giữ được xã hội tôn trọng ra sao? Tự họ sẽ thấy tự hào, thấy trách nhiệm, và sẽ quyết định họ muốn bảo tồn di sản của họ như thế nào? Đóng góp của bảo tàng chúng tôi là giúp họ về nhận thức, để những người trẻ như họ sẽ có suy nghĩ về chiến lược lâu dài.

Bên cạnh đó, cũng có sự giúp đỡ kinh tế trực tiếp ngay. Tôi đã là cầu nối để Phù Thị Thiên gặp gỡ ông Trần Đoàn Lâm, giám đốc NXB Thế giới, đồng thời là Chủ tịch quỹ phát triển cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam – Đan Mạch. Chính Thiên sẽ làm dự án đề xuất để quỹ trợ giúp việc bảo tồn và phát triển một mảng văn hóa dân gian, hay một nghề cổ truyền của dân tộc cô. Tôi tin với sự mạnh mẽ, năng động, Thiên và những người như cô sẽ làm được.

Với những hoạt động này, chúng tôi cố gắng tạo ra hướng bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể, bảo tồn các nghề thủ công gắn với việc phát triển kinh tế. Từ góc nhìn của những người làm bảo tàng, quan niệm và kinh nghiệm của tôi là hãy làm những việc nhỏ nhưng thiết thực, mang lại ích lợi cho chính cộng đồng những dân tộc thiểu số đang nắm giữ văn hóa. Như thế sẽ có hiệu quả, có tác động sâu sắc, rồi từ đó sẽ lan ra, sẽ nhân rộng .

Cách đây mấy năm, Bảo tàng đã thực hiện dự án trao máy ảnh cho những người thợ dệt dân tộc Lào (huyện Điện Biên Đông, nay thuộc tỉnh Điện Biên). Người của Bảo tàng lên trao đổi với họ, hỏi họ về ý nghĩa của từng bức ảnh mà họ chọn chụp. Từ những trao đổi giao lưu thì tự họ nhận thức ra giá trị của nghề dệt, ý nghĩa và những câu chuyện truyền thuyết xung quanh các hoa văn, giá trị của việc dùng các màu nhuộm tự nhiên…

Bảo tàng đã đứng ra tổ chức hai cuộc triển lãm ảnh của họ chụp, một ở Bảo tàng, một ở ngay trong bản của họ. Sau đó một tháng, gần chục đoàn khách du lịch đến thăm làng (trong khi trước đó chưa có lấy một người nước ngoài bước chân đến đó), rồi làng trở thành điểm đến cho các tour du lịch. Vậy là người dân có những nhận thức mới, họ phục hồi sản xuất và tạo ra những sản phẩm mới để bán, làng bản họ giữ vệ sinh hơn, cuộc sống của họ cũng có những thay đổi thích hợp để đón khách tốt hơn nữa. Chính những điều này đã thay đổi cuộc sống của họ.

Năm ngoái, lần đầu tiên những người thợ dệt – vốn luôn sống khép mình trong bản làng – biết tự mình mang sản phẩm xuống Hà Nội để tham gia hội chợ triển lãm Craft Link, bán ngay ở sân Bảo tàng. Tôi cũng đã bàn với Craft Link, xin UNESCO ở Paris kinh phí để mở những lớp học giúp cho nhóm đổi mới mẫu mã, thích ứng với cuộc sống mới mà vẫn giữ những giá trị, những hoa văn truyền thống.

Cách làm đó của Bảo tàng đã được nhân rộng ra ở nhiều dự án khác, như dự án với làng gò đồng Đại Bái, hay dự án trao máy ảnh cho những người dân phố cổ Hà Nội.

Vậy sau triển lãm “Người Pà Thẻn”, ông có nghĩ cuộc sống của họ sẽ thay đổi thế nào không?

Tôi cũng sẽ bàn với chị Nguyễn Nga, Chủ tịch Hiệp hội các dân tộc Á Châu để đưa triển lãm này lên trưng bày ở Hà Giang, ở ngay làng Pà Thẻn. Tôi cũng được biết, Hiệp hội đã có dự án xây dựng một nhà trưng bày ở giữa làng của họ. Đây không chỉ là nơi treo những bức ảnh, mà còn là nơi để họ gặp nhau cho những sinh hoạt tập thể, nơi khách du lịch có thể dừng chân và ngủ qua đêm, gặp gỡ giao lưu với người bản xứ. Hội sẽ tìm kinh phí hỗ trợ để chính họ dựng lên ngôi nhà như họ mong muốn. Tôi nghĩ ý tưởng này nằm trong tầm tay, bởi rất phù hợp với mục tiêu của quỹ Việt Nam – Đan Mạch.

Chính những triển lãm như thế này là sự khởi đầu cho nhiều thay đổi về tư duy, nhận thức, sẽ mở ra một chân trời mới cho chính cộng đồng.

Cách chuẩn bị tour – tạo ấn tượng với khách du lịch: https://goo.gl/vNZdqE Ý nghĩa hình tượng các con vật trong đền, miếu, mạo : https://goo.gl/hVAzor Những cái nhất của vua chúa Việt Nam : https://goo.gl/3PGEga Nét văn hóa các dân tộc Việt Nam: https://goo.gl/qunyjv Sơ lược về đạo mẫu Việt Nam: https://goo.gl/WzzvQF Các trò chơi hoạt náo trên xe: https://goo.gl/Kq7CDi Thuyết minh 6 tỉnh miền Tây: https://goo.gl/CZpqgE

Bảo Tàng Dân Tộc Học Việt Nam

Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam ở đâu

Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam nằm trên đường Nguyễn Văn Huyên, Cầu Giấy, cách trung tâm Hà Nội khoảng 8km. Bảo tàng mang ý nghĩa giá trị văn hóa to lớn quy mô quốc gia cũng như địa phương. Bạn có thể dễ dàng di chuyển tới đây bằng nhiều phương tiện như ô tô, xe máy hoặc taxi. Đối với nhiều du khách khi đến Hà Nội, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam luôn nằm trong danh sách những điểm đến “không thể bỏ qua”.

Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam được hình thành từ năm 1981 tại Hà Nội với diện tích 3,27 ha. Công trình này do kiến trúc sư Hà Đức Linh thiết kế và nữ kiến trúc sư Veronique Dollfus (người Pháp) thiết kế nội thất. Bảo tàng như một bức tranh thu nhỏ về lịch sử cũng như văn hóa của đồng bào 54 dân tộc anh em tại Việt Nam với đa dạng nét văn hóa vô cùng đặc sắc. Các hiện vật này được trưng bày theo nhiều loại khác nhau như: y phục, trang sức, vũ khí, nhạc cụ, tôn giáo, tín ngưỡng và nhiều hoạt động tinh thần khác.

Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam có gì hấp dẫn?

Bảo tàng được chia làm ba khu trưng bày chính: tòa nhà Trống Đồng, khu trưng bày ngoài trời và khu trưng bày Đông Nam Á. Từ ngoài nhìn vào, du khách sẽ thu hút bởi cách trình bày, bố trí từ hình thức đến nội dung thể hiện đều rất khoa học và logic, dễ dàng nắm bắt được màu sắc văn hóa riêng của mỗi dân tộc.

Du khách sẽ ngỡ ngàng trước những hiện vật đẹp mắt được trưng bày cẩn thận từ quần áo, đồ nghề cho tới mô hình các lễ nghi, ma chay, cưới hỏi… Tất cả được dựng lại như một góc thu nhỏ cuộc sống cũng như văn hóa cổ truyền của đồng bào dân tộc xưa kia.

Khu trưng bày ngoài trời

Du khách sau khi tham quan qua tòa nhà Trống Đồng sẽ bắt gặp một khoảng sân lớn, đó khu trưng bày ngoài trời. Tại đây sẽ bắt găp những kiến trúc độc đáo của người dân tôc như nhà sàn của người Tày, nhà sàn của người Ê đê, nhà sàn của người Tày, nhà trệt lợp ván Pơmu của người H’mong. Nằm trong khuôn viên khu vườn còn có cối giã gạo bằng sức nước của người Dao.

Tiếp theo các du khách có thể tham quan khu trưng bày Đông Nam Á ở trong bảo tàng. Nhìn từ xa, du khách sẽ nhận thấy khu trưng bày được xây dựng theo hình cánh diều – một nét văn hóa truyền thống không chỉ của Việt Nam mà của cả khu vực ASEAN. Cánh diều tượng trưng cho ước mơ, hoài bão, cho sự tự do còn mãi với thời gian.

Ở đây thường xuyên trưng bày về văn hóa Đông Nam Á, tranh kính Indonesia, một thoáng châu Á và vòng quanh thế giới. Ngoài ra còn có các hoạt động giáo dục, hội trường, phòng chiếu phim, phòng đa phương tiện, du khách có thể xem tư liệu văn hóa không chỉ của Việt Nam mà còn của các nước ASEAN. Đây chính là cầu nối, quan hệ hữu nghị hợp tác giữa Việt Nam và bạn bè khu vực Đông Nam Á cũng như nhiều nơi trên thế giới.

Các hoạt động thú vị ở Bảo tàng

Du khách đến đây không chỉ tham quan mà vào thứ bảy, chủ nhật hàng tuần, Bảo tàng Dân tộc học còn tổ chức nhiều chương trình biểu diễn múa rối nước, các hoạt động văn nghệ dân gian, lễ hội dân gian mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam phục vụ du khách. Ngoài ra du khách sau khi tham quan bảo tàng có thể dừng chân mua vài món đồ lưu niệm nhỏ nhắn, xinh xắn về làm quà cho gia đình hay những người bạn của mình.

Không chỉ đậm nét bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam mà du khách còn cảm nhận được sự giao thoa mang đậm né tvăn hóa của các nước Đông Nam Á. Điều này càng làm cho mối quan hệ giữa văn hóa Việt nam với văn hóa của các nước Đông Nam Á trở nên tốt đẹp hơn.

Là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa lâu đời của 54 dân tộc anh em kết hợp những sắc màu văn hóa trên khắp cả nước, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam chắc chắn là một trong những địa điểm mà các bạn không thể bỏ qua khi đến với thủ đô. Nếu bạn có chọn địa điểm du lịch đến Hà Nội để tới tham quan, bạn có thể đặt phòng tại chúng tôi

Khám Phá Bảo Tàng Dân Tộc Học Việt Nam

Khái quát về bảo tàng dân tộc học Việt Nam Địa chỉ: số 1, Nguyễn Văn Huyên, Cầu Giấy, Hà Nội.

Giờ mở cửa: mở cửa từ 8h30′ – 17h tất cả các ngày trừ thứ 2 và Tết Nguyên đán.

Giá vé:

Người lớn: 40k/vé

Sinh viên: 15k/vé

Học sinh: 10k/vé

Những hoạt động không thể bỏ qua khi đến Bảo tàng dân tộc học Việt Nam

Múa rối nước

Từ lâu múa rối nước là một loại hình nghệ thuật độc đáo của dân tộc ta, với nội dung phản ánh đời sống sinh hoạt vật chất và tinh thần của người dân thì múa rối nước thực sự là một môn nghệ thuật vô cùng hấp dẫn và đặc biệt.

Dân ca quan họ Bắc Ninh

Đây vốn là một loại hình nghệ thuật – âm nhạc được nhiều người yêu thích, tại bảo tàng dân tộc học Việt Nam cũng có tổ chức các buổi hát quan họ giao lưu văn nghệ giữa các liền anh liền chị để phục vụ khách tham quan cũng như giới thiệu với bạn bè thế giới về loại hình nghê thuật đặc biệt của dân tộc mình.

Trò chơi dân gian

Trong khuôn viên của bảo tàng có rất nhiều trò chơi dân gian được trưng bày, chủ yếu là các trò chơi của đồng bào dân tộc vùng núi phía Bắc như là ném còn, đánh đu, đi cầu kiều, thăng bằng,…nhất định sẽ khiến bạn có những trải nghiệm vô cùng tuyệt vời đấy.

Mua quà lưu niệm gì khi đến Bảo tàng dân tộc học Việt Nam?

Trong bảo tàng dân tộc học có khá nhiều các đồ lưu niệm được bày bán như là các món đồ thổ cẩm, móc chìa khóa, tranh ảnh về văn hóa Việt Nam và nhiều món đồ khác rất phù hợp để bạn mua về làm quà cho bạn bè và người thân.

Đến Bảo tàng dân tộc học Việt Nam bạn có thể ghé qua những địa điểm ăn uống sau:

The Pizza Company – Cầu Giấy (333 Cầu Giấy, Quận Cầu Giấy, Hà Nội)

Brickhouse Bar & Restaurant (Lô 2 Nguyễn Khánh Toàn, Quận Cầu Giấy)

Trống Đông Sơn – Ẩm Thực Á Âu (1 Trần Đăng Ninh, Quận Cầu Giấy, Hà Nội)

Lobster – Đặc Sản Tôm Hùm (168 Nguyễn Khánh Toàn, Quận Cầu Giấy, Hà Nội)

Vy Anh – Các Món Lẩu Và Nướng (160 Nguyễn Khánh Toàn, Quận Cầu Giấy)

Hải Sản Cát Bà – Nguyễn Văn Huyên (Ngã Tư Nguyễn Văn Huyên – Nguyễn Khánh Toàn)

Khách sạn nổi bận xung quanh Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam

Somerset Hoa Binh Hanoi: Khách sạn 4 sao (cách 0,7 km từ Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam)

Granda Quan Hoa Apartment: Khách sạn 3 sao (cách 0,9 km từ Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam)

Lotte Hotel Hanoi: Khách sạn 5 sao (Quận Ba Đình, Hà Nội (cách 1,8 km từ Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam)

Hanoi Sen 2 Hotel: Khách sạn 3 sao (Cau Giay, Hà Nội (cách 0,5 km từ Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam)

Hanoi Sen 2 Hotel: Khách sạn 3 sao (Cau Giay, Hà Nội (cách 0,5 km từ Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam)

Palmo Serviced Apartment 2: Khách sạn 3 sao (Quận Ba Đình, Hà Nội (cách 1,3 km từ Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam)

Giá Vé Vào Cửa Của Bảo Tàng Dân Tộc Học Việt Nam

Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam thu hút nhiều lượt khách đến tham quan mỗi năm

Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam hiện đang nằm trên đường Nguyễn Văn Huyên, Cầu Giấy, cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 8km. Đây là nơi mang ý nghĩa, giá trị văn hóa mang tầm quốc gia. Vì thế, mà đối với nhiều du khách khi đến Hà Nội, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam là một trong những điểm đến thú vị không thể bỏ qua.

Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam được xây dựng vào năm 1981 với diện tích khoảng 3.27 ha, công trình này do kiến trúc sư Hà Đức Linh thiết kế cùng với nữ kiến trúc sư Véronique Dollfus (người Pháp) thiết kế phần nội thất bên trong. Khi vào tham quan, bạn sẽ thấy bảo tàng như một bức tranh thu nhỏ về lịch sử cũng như văn hóa của 54 dân tộc anh em tại Việt Nam với nhiều nét văn hóa đang dạng, sinh động được trưng bày theo nhiều loại hiện vật khác nhau như là y phục, trang sức, nhạc cụ, vũ khí, cùng với nhiều hoạt động văn hóa tinh thần khác nhau.

Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam được chia làm 3 khu trưng bày chính: tòa nhà Trống Đồng, khu trưng bày ngoài trời và khu trùng bày Đông Nam Á. Với thiết kế chỉnh chu, khoa học với những sắc văn hóa riêng biệt của từng dân tộc sẽ làm cho du khách khi đến sẽ bị thu hút.

Vé vào cửa Bảo tàng là 40.000đ/người

– Giờ mở cửa: 8h30′ đến 17h30′ ( tất cả các ngày trong tuần trừ thứ 2 hàng tuần và Tết Nguyên Đán)

Tuy nhiên, bắt đầu từ ngày 1/7/2020 – 1/9/2020 từ 11h30′ đến 13h30′ vào thứ 3 và thứ 6 hằng tuần thì Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam sẽ miễn phí vé vào cửa cho tất cả khách đến tham quan. Không chỉ thế, đến bảo tàng trong thời gian này du khách còn có cơ hội chơi những trò chơi dân gian miễn phí trong không gian rợp cây xanh ở Vườn kiến trúc của bảo tàng trong các ngày cuối tuần từ 1-31/7/2020.

Từ ngày 15/7/2020 đến hết năm nay thì đến Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam vào cuối tuần thì du khách có thể tham gia hoạt động ” Ngày của gia đình”, trong hoạt động này du khách có thể tìm hiểu, khám phá văn hóa của các dân tộc ở Việt Nam và ở Đông Nam Á, tham gia tour tìm hiểu về nông cụ của một số dân tộc. Với mức chi phí khoảng 150.00đ/người thì du khách sẽ được trải nghiệm công việc trong ngày mùa của nhà nông như phơi thóc, quạt thóc, giã gạo, sàng, sẩy; học cách pha nước truyền thống theo kinh nghiệm dân gian; chơi thi gánh lúa qua cầu, làm đồ chơi bằng lá…Hoạt động này đặc biệt phù hợp cho những gia đình muốn con nhỏ được học hỏi, vui chơi, trải nghiệm lành mạnh.

Bạn đang xem bài viết Thuyết Minh Bảo Tàng Dân Tộc Học Việt Nam Dành Cho Hướng Dẫn Viên Du Lịch trên website Lienminhchienthan.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!