Xem Nhiều 3/2023 #️ Nguyên Tắc Dạy Học Là Gì? # Top 9 Trend | Lienminhchienthan.com

Xem Nhiều 3/2023 # Nguyên Tắc Dạy Học Là Gì? # Top 9 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Nguyên Tắc Dạy Học Là Gì? mới nhất trên website Lienminhchienthan.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Giáo dục học chiếm một vị trí quan trọng trong giải quyết các vấn đề giáo dục, nhằm đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội ở mỗi quốc gia, do vậy mà các nguyên tắc dạy học đã ra đời phục vụ cho việc dạy và học giữa thầy cô và học sinh hơn.

1. Định nghĩa của nguyên tắc dạy học

Nguyên tắc là hệ thống các quan điểm, tư tưởng xuyên suốt toàn bộ hoặc một giai đoạn nhất định đòi hỏi các tổ chức và cá nhân phải tuân theo, nói khác theo cách khác thì Nguyên tắc là tư tưởng chỉ đạo quy tắc cơ bản,yêu cầu cơ bản đối với hoạt động và hành vì rút ra từ tính quy luật được khoa học thiết lập.

Cũng giống như nguyên tắc vậy, nguyên tắc dạy học cũng có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng mang một nội dung chính là muốn cho người học hiểu được bài. Chúng ta có thể xem qua 2 khái niệm dưới đây:

– Nguyên tắc dạy học là một hệ thống nhiều luận điểm, mỗi nguyên tắc nhấn mạnh một khía cạnh của quá trình dạy học, nói cách khác nguyên tắc dạy học là luận điểm cơ bản cần phải dựa vào khi giảng dạy những vấn đề khoa học

– Nguyên tắc dạy học là hệ thống xác định những yêu cầu cơ bản, có tính chất xuất phát để chỉ đạo việc xác định nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với mục đích giáo dục, với nhiệm vụ dạy học và với những tính quy luật của quá trình dạy học.

Nguyên tắc dạy học là phạm trù lịch sử, lịch sử phát triển nhà trường và lý luận nhà trường đã chỉ ra rằng mục đích giáo dục biến đổi dưới tác động của những yêu cầu của sự phát triển xã hội đã dẫn tới sự biến đổi các nguyên tắc dạy học, với lý luận dạy học phải nhạy bén nắm bắt sự biến đổi những yêu cầu của xã hội đối với việc giáo dục thế hệ trẻ, phản ứng kịp thời trước những yêu cầu đó xây dựng hệ thống những nguyên tắc dạy học chỉ ra một cách đúng đắn phương hướng chung đi đến mục đích và đồng thời cũng cần bảo toàn và hoàn thiện những phương pháp dạy học trước đây mà chưa mất ý nghĩa trong hoàn cảnh mới của nhà trường.

2. Vai trò của nguyên tắc dạy học

Nguyên tắc dạy học đóng vai trò quan trọng trong quá trình dạy và học vì nó không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo của một trường học, một cơ sở giáo dục cụ thể nào đó mà thực chất là nó quyết định chất lượng ” sản phẩm” của nền giáo dục lấy các nguyên tắc dạy học đó làm nền tảng, vì lẽ đó mỗi giáo viên cần hiểu rõ và biết vận dụng hệ thống các nguyên tắc dạy học vi nó hâu như chi phối toàn bộ nội dung và hình thức dạy học.

3. Hệ thống các nguyên tắc dạy học

3.1. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính khoa học và tính giáo dục trong dạy học

Nguyên tắc này chính là đảm bảo sự thống nhất giữa hai mặt phẩm chất và năng lực trong nhân cách học sinh.

Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học phải vũ trang cho người học những tri thức khoa học chân chính, phản ánh những thành tựu khoa học, công nghệ và văn hoá hiện đại, phải dần dần giúp học sinh tiếp cận với những phương pháp học tập, nhận thức, thói quen suy nghĩ và làm việc một cách khoa học, dạy học không chỉ làm phát triển lý trí của con người và cung cấp cho người học một khối lượng kiến thức nào đó mà phải làm cháy lên ở họ lòng khát khao học tập một cách nghiêm túc và thiếu điều đó thì cuộc sống không thể nào là một cuộc sống xứng đáng và hạnh phúc.

Cách thực hiện nguyên tắc này cần phải:

– Cần phải bổ xung cho người học những tri thức khoa học hiện đại nhằm giúp cho người học nắm được quy luật phát triển của tự nhiên, xã hội nhờ khoa học, bên cạnh đó giúp học có cái nhìn tư duy, có cách nhìn và thái độ hành động đúng đắn đối với hiện thực hơn.

– Cung cấp cho người học hiểu biết sâu sắc về xã hội, con người , những truyền thống tốt đẹp của Việt Nam ta trong lịch sử dựng nước và bảo vệ đất nước qua hàng ngàn năm, từ đó giáo dục cho học sinh tinh thần trách nhiệm, nghĩa vụ công dân bảo vệ các truyền thống đó trước sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong học tập

– Bồi dưỡng cho học sinh các khả năng phân tích, tư duy phê phán một cách đúng nhất các thông tin được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng nó đúng hay sai và những vấn đề khác nữa.

– Vận dụng các phương pháp và hình thức dạy học theo hướng khoa học hóa giúp học sinh làm quen được với một số phương pháp nghiên cứu khoa học từ đó dần tiếp cận với hoạt động khoa học, rèn luyện những tác phong, phẩm chất của người nghiên cứu khoa học.

3.2. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa “lý luận và thực tiễn”, “học đi đôi với hành” và “nhà trường gắn liền với đời sống, với nhiệm vụ phát triển đất nước”

Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học nắm vững tri thức, nắm vững cơ sở khoa học, kỹ thuật, văn hoá thông qua đó mà giúp họ ý thức rõ tác dụng của tri thức lý thuyết đối với thực tiễn, hình thành cho họ những kỹ năng vận dụng chúng ở những mức độ khác nhau mà mức độ cao nhất là góp phần phát triển kinh tế- xã hội và văn hoá- khoa học của đất nước.

Bản thân nguyên tắc ” Lý luận và thực tiễn” đã phản ánh luôn nội dung “học đi đôi với hành”, như chúng ta đã biết khi đưa ra lý luận thì cần phải có những dẫn chứng thực tiễn để có thể phân tích được vấn đề cần phải lý luận đó, cũng giống như lúc chúng ta muốn bắn cái tên đến cái đích đã định sẵn, có tên rồi mà lại không bắn được, bắn lệch bắn ngang, việc này muốn nhắc nhở chúng ta cần phải cố gắng học, đồng thời phải thực hành kèm theo.

Bác Hồ đã nói, đã học là phải học phải toàn diện, không những phải có tri thức phổ thông mà còn phải có đạo đức cách mạng, còn với hành theo Bác là vận dụng những điều đã học vào việc giải quyết những vấn đề do thực tiễn đề ra, việc thực hành này không chỉ là những việc to lớn mà cả trong những việc bình thường, ai cũng làm, từ đó có thể nhận thấy nội dung khái niệm học và hành nó liên kết chặt chẽ với nhau, trong nội dung học có nội dung hành và ngược lại.

Để thực hiện nguyên tắc này cần phải:

– Về nội dung dạy học phải làm cho người học nắm vững lý thuyết, thấy rõ nguồn gốc của những giá trị và vai trò của kiến thức khoa học đối với thực tiễn, phải vạch ra phương hướng ứng dụng kiến thức khoa học vào hoàn cảnh cụ thể đất nước và phản ánh được tình hình thực tiễn vào nội dung dạy học.

– Về phương pháp dạy học cần phải giúp người học hiểu được vấn đề từ đó đặt ra những câu hỏi và giải quyết những vấn đề cần lý luận bên cạnh đó cần vận dụng những phương pháp như thí nghiệm, thực nghiệm, nghiên cứu các tài liệu thực tiễn để cho học sinh nắm nhanh và nắm chắc những tri thức lý thuyết và vận dụng những tri thức lý thuyết đó vào giải quyết những tình huống khác nhau.

– Về hình thức tổ chức dạy học thì cần kết hợp các hình thức tổ chức dạy học khác nhau như hình tham quan, thực hành ở phòng thí nghiệm, ở các trung tâm kỹ thuật tổng hợp cần thiết cho môn học

3.3. Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống và tính tuần tự trong dạy học

Nguyên tắc này đòi hỏi phải giúp người học lĩnh hội hay nói cách khác là nhận thức được trình tự hệ thống logic, phải cho người học biết hệ thống những kiến thức khoa học hiện đại. Trong lịch sử khoa học, sự nhận thức những vật thể và hiện tượng phức tạp hơn thường đi trước sự nhận thức những thành phần của nó, trong quá trình dạy học ở trường phổ thông khi muốn giới thiệu về tế bào của động, thực vật thì cần phải giới thiệu những thực vật, động vật trước hay việc trình bày các hợp chất trước tiên phải nghiên cứu các phân tử, nguyên tử,… Chính vì thế hệ thống hợp lý về mặt lý luận dạy học của những giáo trình phải được xây dựng trên sự nghiên cứu cẩn thận logic của khoa học và sự phát triển của những khái niệm, định luật trong lịch sử khoa học và trong ý thức của người học sinh.

Để thực hiện nguyên tắc dạy học này, về mặt nội dung dạy học cần:

– Xây dựng hệ thống dạy học cần phải phụ thuộc vào lý thuyết làm cơ sở cho việc giảng dạy, với tính tuần tự như vậy mới tạo điều kiện thuận lợi để phát triển tư duy lý luận cho học sinh.

3.4. Thống nhất vai trò chủ đạo của người dạy và vai trò tích cực, tự giác, sáng tạo độc lập của học sinh trong dạy học

Trong dạy học, phải đảm bảo mối quan hệ thuận lợi nhất giữa sự chỉ đạo sư phạm của thầy giáo và lao động tích cực, tự giác, sáng tạo của học sinh

– Tính tự giác nhận thức thể hiện ở chỗ người học phải tự nhận thức đầy đủ mục đích của việc học này, nhiệm vụ của mình cần phải làm gì.

– Tính tích cực nhận thức ở đây được hiểu là người học có thái độ tích cực trọng việc học, có sự tương tác cao trong việc dạy và học của hai.

– Tính sáng tạo độc lập ở đây được hiểu là học sinh tự độc lập trong việc giải quyết các vấn đề, cần sáng tạo trong lúc cần thiết điều này cần phải linh động từ ý thức tới hành động .

Để thực hiện nguyên tắc này, trong quá trình dạy học cần:

– Hoạt động dạy học phải hướng vào người học sinh, phải phát huy cao độ tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh, tạo điều kiện cho họ có thể học tập bằng chính hoạt động của mình.

– Giáo dục cho học sinh ý thức đầy đủ, sâu sắc về mục đích, nhiệm vụ học tập, từ đó có động cơ, thái độ học tập đúng đắn.

– Phát huy tư duy ngôn ngữ cho học sinh, khéo léo dẫn dắt học sinh vào các tình huống có vấn đề, giải các bài tập có tính độc lập.

– Bồi dưỡng cho các em năng lực tự học, tự nghiên cứu, óc hoài nghi khoa học…

– Trong giảng dạy, giáo viên phải thu được thông tin ngược chiều từ phía học sinh để điều chỉnh và hoàn thiện hơn công tác dạy và học.

3.5. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa cái cụ thể và cái trừu tượng trong dạy học

Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học cần cho học sinh tiếp xúc trực tiếp với những sự vật hiện tượng hay các hình ảnh của chúng từ đó có thể tự đưa ra các khái niệm, quy luật trừu tượng theo cách suy nghĩ của mình. Và ngược lại, có thể cho học sinh nắm cái trừu tượng, khái quát rồi xem xét các sự vật, hiện tượng cụ thể, đảm bảo được mối liên hệ qua lại giữa tư duy cụ thể và tư duy trừu tượng.

Để thực hiện nguyên tắc này cần:

– Sử dụng phối hợp nhiều phương tiện trực quan khác nhau với tư cách là phương tiện và các nguồn kiến thức trong khi giảng bài, khi tổ chức, điều khiển hoạt động lĩnh hội tri thức mới, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, ôn tập và củng cố kiến thức

– Kết hợp việc trình bày các phương tiện trực quan với lời nói, nghĩa là kết hợp hai hệ thống tín hiệu với nhau.

– Rèn luyện cho học sinh óc quan sát và năng lực rút ra những kết luận có tính khái quát.

– Tổ chức, điều khiển học sinh, trong những trường hợp nhất định, nắm những cái khái quát, trừu tượng như các khái niệm, những quy tắc, … rồi từ đó đi đến những cái cụ thể, riêng biệt như lấy ví dụ cụ thể minh họa, vận dụng quy tắc để giải các bài tập cụ thể ..

– Cho học sinh làm các bài tập nhận thức đòi hỏi phải thiết lập mối liên hệ giữa cụ thể hóa và trừu tượng hóa, giữa tư duy cụ thể và tư duy trừu tượng …

3.6. Nguyên tắc đảm bảo tính vững chắc và sự phát triển năng lực nhận thức của học sinh

Trong quá trình dạy học, đòi hỏi học sinh phải nắm vững tri thức, kĩ năng, kĩ xảo để khi cần, có thể nhớ, vận dụng được một các linh hoạt, sáng tạo trong các tình huống nhận thức hay hoạt động thực tiễn khác nhau. Bên cạnh đó rèn luyện ở học sinh phẩm chất tư duy nói chung, phẩm chất mềm dẻo để vận dụng điều đã học vào tình huống quen thuộc và tình huống mới.

Tâm lý học đã khẳng định việc lĩnh hội nội dung dạy học và phát triển năng lực nhận thức là hai mặt của một quá trình, có liên hệ mật thiết với nhau, khi lĩnh hội những tri thức khoa học thì trí não đồng thời thực hiện những nhiệm vụ nhận thức khác nhau, và cùng với điều đó, năng lực nhận thức của học sinh được phát triển.

Biện pháp thực hiện

-Trong dạy học, cần làm nổi bật cái cơ bản của từng đề mục, từng chương để học sinh tập trung sức lực và trí tuệ vào đó, không bị phân tán vào tình huống không cơ bản.

-Trong dạy học, học sinh phải biết sử dụng phối hợp các loại ghi nhớ, ghi nhớ không chủ định và ghi nhớ có chủ định, ghi nhớ máy móc và ghi nhớ ý nghĩa. Trong khi học bài, có những cái phải học thuộc lòng, có cái nhớ đại ý.

– Hướng dẫn học sinh biết cách sử dụng sách giáo khoa và tài liệu học tập khác.

– Hướng dẫn học sinh biết cách ôn tập

– Cần tổ chức quá trình dạy học như thế nào để một bộ phận đáng kể những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo được củng cố tại tiết học muốn vậy, việc trình bày tài liệu học tập của giáo viên phải logic, rõ ràng, dễ hiểu, phải tác động mạnh về mặt cảm xúc.

3.7. Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức và chú ý tới đặc điểm lứa tuổi, đặc điểm cá biệt và tính tập thể của việc dạy học

Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học, khi lựa chọn nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phải không ngừng nâng cao mức độ khó khăn trong học tập, gây nên sự căng thẳng về trí lực, thể lực một cách cần thiết, nói cách khác, dạy học vừa sức có nghĩa là trong dạy học phải tạo nên khó khăn vừa sức, những yêu cầu và nhiệm vụ học tập đề ra phải tương ứng với giới hạn cao nhất của vùng phát triển trí tuệ gần nhất.

Tính vừa sức đòi hỏi phải phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, mỗi độ tuổi gắn liền với sự trưởng thành của những cơ quan trong cơ thể và những chức năng của các cơ quan đó, cũng như với sự tích lũy những kinh nghiệm về mặt nhận thức và về mặt xã hội, với loại hoạt động chủ đạo của lứa tuổi đó, lứa tuổi thay đổi thì nhu cầu trí tuệ và hứng thú nhận thức của trẻ cũng biến đổi.

Để đảm bảo tính vừa sức và chú ý tới những đặc điểm cá biệt trong điều kiện tiến hành dạy và học với cả tập thể cần:

– Xác định mức độ tính chất khó khăn trong quá trình dạy học để thiết lập những cách thức chủ yếu tạo nên động lực học tập, mở rộng khả năng nhận thức của học sinh, suy nghĩ những biện pháp tiến hành chung với cả lớp và với từng học sinh.

– Phối hợp hình thức lên lớp, hình thức độc lập công tác của học sinh và hình thức học tập nhóm tại lớp, trước tập thể lớp, giáo viên đề ra nhiệm vụ chung và dưới sự chỉ đạo của giáo viên, từng cá nhân suy nghĩ cách giải quyết và trong thời gian đó, giáo viên giúp đỡ những học sinh yếu kém.

– Cách tiến hành dạy học như vậy không chỉ giáo dục tinh thần tập thể cho học sinh, mà từng học sinh giúp đỡ lẫn nhau nên nhiệm vụ học tập đề ra trở nên vừa sức mỗi người.

3.8. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính vừa sức chung và vừa sức riêng trong dạy học

Đảm bảo nguyên tắc này trong dạy học là phải vận dụng nội dung, phương pháp, hình thức dạy học nhằm thúc đẩy sự phát triển trí tuệ của mọi thành viên trong lớp đồng thời phải quan tâm đến từng cá nhân người học, đảm bảo cho mọi người đều có thể phát triển ở mức tối đa so với khả năng của mình.

Biện pháp thực hiện

– Khi dạy học, cần nắm vững đặc điểm chung của cả lớp, đặc điểm riêng từng em về các mặt, nhất là về năng lực nhận thức và động cơ, thái độ học tập.

– Khi lên lớp, giáo viên phải thường xuyên nắm tình hình lĩnh hội của học sinh để có thể kịp thời điều chỉnh hoạt động của mình cũng như của học sinh, nhất là học sinh yếu kém.

– Cần cá biệt hóa việc dạy học

– Đây là biện pháp cơ bản để giúp đỡ riêng từng loại đối tượng học sinh, thậm chí từng học sinh.

3.9. Nguyên tắc đảm bảo cảm xúc mang tính tích cực của dạy học

Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học phải lôi cuốn hấp dẫn tạo hứng thú học hỏi cho người học, tác động mạnh mẽ lên cảm xúc của họ, bởi tình cảm có vai trò quan trọng đối với hoạt động của con người, thôi thúc con người hành động, thậm chí đến mức xả thân mình cho sự nghiệp

Thực tiễn cũng chứng minh rằng nếu bạn yêu thích một công việc nào đó thì bạn sẽ dễ dàng hoàn thành nó, mặt khác nếu gặp khó khăn trong chính công việc bạn yêu thích bạn cũng sẽ biết cách giải quyết nó một cách triệt để nhất. Ngược lại, nếu bạn không yêu thích công việc đó thì không những không động viên được chính mình mà còn đè nén nó tạo ra cái cảm giác khó chịu trong lòng làm cho công việc có hiệu quả không được cao bởi vậy việc học tập của học sinh cũng giống như như vậy.

Để thực hiện nguyên tắc này, trong quá trình dạy học cần:

– Thực hiện mối liên hệ dạy học với cuộc sống, với thực tiễn xây dựng đất nước, với kinh nghiệm sống của bản thân học sinh, đó là phương tiện hình thành tình cảm nghĩa vụ và nâng cao hứng thú học tập.

– Trong nội dung và phương pháp học tập cần làm sao tăng cường hoạt động tích cực tìm tòi, đòi hỏi học sinh phải suy nghĩ, phát hiện, điều đó sẽ tạo điều kiện cho học sinh hình thành tình cảm trí tuệ.

– Nên sử dụng các phương tiện nghệ thuật như văn học, âm nhạc, nghệ thuật tạo hình, kịch…trong quá trình dạy học, vì đó là những phương tiện tác động mạnh mẽ đến tình cảm của người học, đây là một phương pháp giúp cho người học thích thú hơn. Người dạy không cần phải lo cho học sinh thiếu tập trung vào công việc học tập nghiêm túc, vì khoa học và nghệ thuật nó gắn liền với nhau.

Khoa học và nghệ thuật đều cùng phản ánh hiện thực khách quan, nhưng phương tiện sử dụng của chúng khác nhau, khoa học phản ánh hiện thực bằng khái niệm, định luật, lý thuyết còn nghệ thuật bằng hình tượng, cả hai cách phản ánh đó không mâu thuẫn nhau mà còn bổ sung và làm phong phú cho nhau, tạo điều kiện hình thành và phối hợp tư duy logic với tư duy thẩm mỹ.

– Tính cảm xúc của quá trình dạy học còn phụ thuộc vào ngữ cảnh, vào hoạt động học tập, hoạt động tập thể của học sinh càng có nội dung, càng phong phú về hình thức thì càng kích thích nhu cầu hiểu biết, hứng thú với học tập, vì vậy cần chú ý tổ chức hoạt động tập thể của học sinh cần tổ chức dạy học như một hình thức tham quan học tập, hình thức ngoại khoá

– Nhân cách người giáo viên có vai trò rất lớn trong việc tác động về mặt cảm xúc đối với người học, ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc thể hiện thái độ của giáo viên đối với những sự vật, hiện tượng và tư tưởng được trình bày không chỉ giúp cho học sinh có tri thức về vấn đề nào đó mà còn kích thích hình thành tình cảm tương ứng.

3.10. Nguyên tắc chuyển quá trình dạy học sang quá trình tự học

Nguyên tắc này đòi hỏi phải hình thành cho người học có nhu cầu, năng lực, phẩm chất tự học để có thể chuyển dần quá trình dạy học sang quá trình tự học, nghĩa là người học có thể tự mình tìm ra kiến thức cùng với cách khai thác bằng hành động của chính mình, tự thể hiện mình và hợp tác với các bạn, tự tổ chức hoạt động của mình, tự kiểm tra, tự đánh giá, tự điều chỉnh hoạt động học của mình.

Để thực hiện nguyên tắc này cần:

– Thông qua phương pháp giảng dạy của giáo viên mà thúc đẩy học sinh thực hiện có hệ thống công tác độc lập nhằm lĩnh hội những tri thức về khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật mà họ yêu thích.

– Trong quá trình dạy học cần chú ý hình thành cho học sinh những kỹ năng lập kế hoạch, kỹ năng tự tổ chức, kỹ năng tự kiểm tra, tự đánh giá hoạt động tự học của chính mình, thông qua công tác độc lập làm cho học sinh cảm thấy rằng việc tự học không chỉ là công việc của bản thân từng người mà là sự quan tâm chung của cả tập thể lớp, của giáo viên và của tập thể sư phạm.

– Cần tận dụng những nội dung dạy học, những hoàn cảnh thuận lợi nêu những tấm gương tự học của những nhân vật trong lịch sử đất nước, trong trường, trong lớp để các em lấy đó làm gương mà học tập, noi theo.

– Cần phát động và tổ chức các giờ tự học trong lớp, trong trường cho học sinh.

4. Mối liên hệ giữa các nguyên tắc dạy học

Các nguyên tắc dạy học có mối liên hệ mật thiết với nhau, nội dung của từng nguyên tắc đan kết với nhau hỗ trợ nhau nhằm đảm bảo thực hiện quá trình dạy học đạt được hiệu quả, chẳng hạn khi thực hiện nguyên tắc đảm bảo tính khoa học và tính giáo dục trong dạy học không thể không chú ý tới nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, học đi đôi với hành; nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính tự giác, tính tích cực, tính độc lập sáng tạo của học sinh và vai trò chủ đạo của giáo viên trong quá trình dạy học; nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức và chú ý tới đặc điểm lứa tuổi và đặc điểm cá nhân trong điều kiện dạy học tập thể; nguyên tắc đảm bảo tính cảm xúc tích cực của dạy học; nguyên tắc chuyển từ dạy học sang tự học.

Nếu xét các nguyên tắc dạy học khác thì cũng như vậy, trong quá trình dạy học, với nội dung và những điều kiện dạy học nhất định, có thể coi trọng một nguyên tắc dạy học nào đó, điều đó không có nghĩa là coi nhẹ những nguyên tắc khác mà cần phải kết hợp các nguyên tắc thành một thể hoàn chỉnh thì mới đạt được hiệu quả cao trong quá trình dạy học.

Compliance Là Gì? Lịch Sự Thành Công Đến Từ Việc Tuân Thủ Nguyên Tắc

Theo tiếng Anh thì Compliance được hiểu có nghĩa là tuân thủ nguyên tắc. Vậy thế nào là tuân thủ nguyên tắc? Tuân thủ nguyên tắc có nghĩa là làm đúng theo những quy định, những chuẩn mực đạo đức đã được đặt ra. Ngoài ra thì tuân thủ nguyên tắc còn là tuân thủ theo những quy định chung của xã hội và của nhà nước. Trong bất cứ một hoạt động nào của bất cứ một cơ quan, đơn vị nào đó thì đều cần phải có nguyên tắc và đặt ra những nguyên tắc đó để cấp trên và cấp dưới cùng nhau thực hiện, cùng nhau đưa công ty phát triển. Bên cạnh đó thì các việc làm cũng như là nhiệm vụ được giao cho nhân viên, cho cấp dưới cũng cần phải đảm bảo một nguyên tắc nhất định về công việc.

Như đã nhắc qua ở phần bên trên thì việc mà mỗi cá nhân, mỗi con người sống trong một xã hội cần phải tuân thủ những nguyên tắc cả về đạo đức và quy định chuẩn mực, như vậy thì đất nước và quốc gia moiwsw có thể phát triển được một cách bền vững. Chúng ta cũng c ó thể thấy ràng, một trong những quốc gia phát triển hàng đầu thế giới hiện nay là nhờ vào mỗi cá nhân công dân của họ, họ thật sự và tuyệt đối tuân thủ những nguyên tắc chuẩn mực mà được xã hội đặt ra, đó chính là nước Nhật. Một trong những cường quốc, những quốc gia phát triển bậc nhất trên thế giới hiện nay.

Việc làm Biên – Phiên dịch

2. Vì sao người Nhật lại tuân thủ quy tắc

Tại sao người Nhật lại tuân thủ quy tắc thì có lẽ không ai có thể giải thích rõ ràng được, chỉ biết rằng, nhờ vào việc tuân thủ nguyên tắc mà quốc gia của họ đang rất phat triển. Việc tuân thủ nguyên tắc có lẽ đã ăn sâu vào từng con người của họ, từ những bậc tiền bối xa xư để lại cho họ đến ngày nay là một đức tính tuân thủ các nguyên tắc chuẩn mực trong đời sống cũng như trong xã hội.

Như vậy ta thấy được rằng những trẻ em Trung Quốc sinh ra và lớn lên ở đất nước Nhật Bản, tuy là có biết nói tiếng trung, trong người có dòng máu chảy cũng là Trung Quốc, nhưng các thói quen về nếp sống lại gần như khá giống với người Nhật. Có một người Trung quốc khi con anh ấy còn nhỏ thì chính anh ấy là người dạy dỗ mấy đứa nhỏ, thế nhưng khi mấy dứa nhỏ đến trường đi học thì lại đổi ngược rằng, các con mới là người dạy lại anh ấy.

Tuy rằng anh ta đã sống ở quốc gia Nhật rất là nhiều năm, nhưng anh ta vẫn có thói quen của người Trung Quốc, và tất nhiên nó sẽ không phù hợp với một ddaats nước phát triển và tuân thủ nguyên tắc như Nhật Bản. Sauk hi mà các con của anh ấy dần lớn lên, chúng đã có thể phát hiện ra rằng anh ta rất thường xuyên không tuân thủ các nguyên tắc, luôn tự nghĩ mình là đúng và không suy nghĩ cho người khác, chỉ luôn nghĩ cho mình. Thế là các con của anh aays thường xuyên phải nhắc anh ấy rằng: “Sao bố lại không thử suy nghĩ cho người khác chứ ạ? Đừng nói lớn tiếng như vậy ạ, mọi người đều đang nhìn bố đấy…”. Như vậy thì có thể nhận thấy được rằng các thói quen cũng như là lễ nghĩa và cách cư xửa của người Châu Á và Nhật Bản là hoàn toàn khác nhau, cần phải lập tức “nhập gia tùy tục” để từ đó mà dần hòa nhập được với quốc gia và lối sống của người Nhật Bản.

Ở nước Nhật, người ta giáo dục con trẻ bắt đầu từ những năm học mẫu giáo, ngay từ lúc đi học mẫu giáo, họ đã dạy cho bọn trẻ làm thế bào để con trẻ có một lối sống thật tốt. Dù cho đó là những đứa trẻ nước ngoài sông ở bến Nhật cũng không ngoại lệ, những giáo viên ở đây không hề phân biệt giữa những đứa trẻ với nhau mà họ sẽ đều dạy trẻ theo phong tục và tập quán truyền thống của Nhật Bản. Ngay từ lúc học tiểu học thì học sinh đã phải học những phép tắc cơ bản đến những lễ nghi, còn đến thời trung học và học sinh cấp 3 thì sẽ học kính ngữ, lễ ngĩa, luật lệ… Chính vì thế nên sau khi những đứa trẻ trưởng thành, thì họ sẽ tự nhiên biết tuân thủ quy củ cũng như là phép tắc và giáo dục.

Có khá là nhiều người trên thế giới, kể cả là Trung Quốc đã từng đến Nhật và nói rằng, họ cực kỳ ngỡ ngàng về việc tuân thủ mọi quy tắc của người Nhật, đến cả mặt lễ nghĩa của người Nhật cũng khiến họ vô cùng là than phục. Cũng có khá là nhiều người chỉ đên Nhật du lịch trong khoảng thời gian ngắn nhưng khi trở về đã không còn vứt rác bừa bãi và biết lễ phép, nhường nhịn hơn.

Có một vị khách Trung Quốc đến Nhật Bản để thăm người thân và du lịch, có một lần, hình như không có ai bảo với anh ta về cách sử dụng sản phẩm, thế là người quản lý lập tức đi nói với họ ngay.

Di chuyển bằng tàu điện ngầm lúc 8 giờ sáng, thời gian đó thật sự khá là đông đúc. ở chiếc của của tàu điện ngầm và nhìn ra bên ngoài thì sẽ thấy được có khá nhiều người đang điều tiết giao thông, tất cả bọn họ đều mặc trang phục màu xanh, đầu đội mũ, đeo trên mình chiếc bộ đàm và cầm theo loa. Và mỗi buổi sáng mọi người đều nghe thấy những người điều phối giao thông, họ nói rằng: “Hành khách đi xe số… mời đi bên này, xin hãy chú ý an toàn!” Rồi chợt nghĩ rằng người Nhật vốn ý thức của họ đã tốt như vậy rồi, họ sống rất tuân thủ các nguyên tắc như vậy rồi thì tại sao còn phải hướng dẫn như vậy.

Để rồi về sau mới biết được một điều như thế này đó là vì sao cần phải trật tự, bởi vì trên tuyến tàu điện ngầm này đang trong quyas trình tu sửa, bảo dưỡng nên đường đi khá hẹp. Dòng người đi làm thì đông đúc và rất dễ xảy ra hiện tượng là tắc nghẽn, nhưng rồi mỗi lân đi qua đây thì đều thấy rằng mọi người đều cực kỳ im lặng và xếp hàng đi lên xuống cầu thang.

Quả thật, nước Nhật là một quốc gia, một xã hội, một môi trường tốt đẹp. Không lệch đi đâu được nếu như ttrong một môi trường xã hội mà tốt đẹp thì sẽ thay đổi được thói quen cũng như là tính cách và cách hành xử lễ nghĩa của một con người. Thế nhưng để có được một môi trường xã hội tốt đẹp như vậy thì trong mỗi cá nhân sống trong xã hội phải chịu hi sinh thì mới có thể thực hiện được.

Những thành công của Nhật Bản bây giờ cũng đến từ việc tuân thủ theo các nguyên tắc.

– Lịch sự: Lịch sự là một điều khá là dễ thấy khi đến với đất nước Nhật Bản. Có thể thấy được rằng cách người Nhật họ dùng kính ngữ khi mà trò chuyện cùng với người khác, nghe những câu chào đón của nhân viên khi mà bước vào nhà hàng, hoặc là được những người bán hàng xách đồ hộ, tiễn ra tận của với thái độ vô cùng chân thành đúng mức.

Theo những nguyên tắ sống đáng tự hào của con người nơi đây thì lịch sự ngĩa là bớt đi phần ích kỷ, giúp những người khác mà không nghĩ đến việc mình có được nhận lại được những gì hay không, nâng giá trị của người khác cũng là nâng lên giá trị của chính bản thân mình.

– Giữ lời: Những điều gì mà người Nhật nói thì người ta sẽ thực hiện việc đó. Chẳng hạn như nếu mà họ được mời tới dự một sự kiện đặc biệt nào đó thì thường thường là họ sẽ không từ chối. Nếu như mà họ nói sẽ tham dự thì nhất định họ sẽ tới buổi lễ đó cho bằng được. Nếu như nhận lời mà không đi cho dù bất kể là lý do nào đi chăng nữa thì sẽ bị coi là người mất lịch sự. Nếu trường hợp đặc biệt mà không thể đi được thì họ sẽ gọi điện báo lại và rồi cử người đi thay.

3. Tuân thủ nguyên tắc ở Việt Nam

Dân tộc Việt nam ta từ trước tới nay luôn có một vài nguyên tắc đặt ra, về đạo đức cũng như trong lối sống của con người. một vài nguyên tắc khá là thú vị của người Việt Nam ta đó là nguyên tắc trong bữa ăn, đây là một trong những nguyên tắc phải tuân thủ khi muốn trong mắt của một người mình là một người lịch sự.

Đến đây thôi thì chắc hẳn khá nhiều người sẽ thấy thú vị về những điều như thế này, những quy tắc đó luôn được coi là “luật bất thành văn” đã được tồn tại trong xã hội ta từ rất lâu. Và những quy tắc trong bữa com của Người Việt nam như sau:

– khi đưa bát cơm lên miệng và thì không được và quá 3 lần cơm

– Không được gắp thức ăn từ đĩa hoặc bát chung rồi đưa thẳng vào miệng mà phải đặt vào bát riêng rồi mới ăn.

– Không dùng thìa đũa cá nhân của mình quấy vào tô chung.

– Không chọc và xới linh tinh trong đĩa để tìm miếng ngon.

– Tuyệt đối không được cắm đũa dựng đứng vào bát cơm.

– Không nhúng nguyên chiếc đầu đũa vào bát nước chấm.

– Phải trở đầu đũa khi muốn tiếp thức ăn cho người khác.

– Trong bữa ăn không được căn và ngậm đầu đũa

– Không được vừa cầm đũa và vừa cầm bát cơm để chỉ tay cũng như để rảnh tay lkafm việc khác cũng không được ngậm đũa ở trên miệng, để có tay làm việc khác thì nên đặt đũa và thìa cảu mình xuống dưới mâm.

– Khi ngồi ăn thì dù là trên ghế hay là ngồi mâm cũng tuyệt đối không được rung đùi, vì hành động rung đùi là tướng bần tiện của nam và dâm dục của nữ, như vậy sẽ cực kỳ là vô lễ.

– Dù thế nào cũng không được ăn trước người lớn tuổi, phải chờ người lớn tuổi ăn trước thì mới đến lượt mình ăn. Nếu mà đi làm khách thì tuyệt đối không được gắp thức ăn trước chủ nhà cũng như là ăn trước người chủ của bữa cơm…

Xem ra thì bài viết trên của chúng tôi đã phần nào cho các độc giả biết được Compliance là gì? Để từ đó các bạn có thể tự đặt ra cho mình những nguyên tắc hoặc là sẽ tuân thủ hơn về những nguyên tặc được dra trong công việc cũng như trong xã hội, dựa vào đó để thành công hơn và xác định đúng hơn về những nghề nghiệp trong tương lai của mình. chúng tôi là một website chuyên về đăng tin tuyển dụng, giúp các bạn dễ dàng hơn trong vấn đề tìm kiếm việc làm. Chức các bạn luôn thành công!

Các Nguyên Tắc Đặc Thù Trong Dạy Học Tiếng Việt

Đề xuất ý kiến cá nhân

Anh (chị) hãy nghĩ về một quy trình dạy học một đơn vị tri thức trong chương trình Sách giáo khoa THCS hoặc THPT. Anh (chị) dự kiến: làm thế nào để học sinh nắm bắt được đơn vị tri thức ấy một cách hiệu quả?

gắn việc trang bị tri thức tiếng Việt với việc hướng dẫn cho học sinh tư duy về tri thức ấy

N gôn ngữ vừa là công cụ lại vừa là sản phẩm của tư duy và tư duy là hiện thực trực tiếp của ngôn ngữ. Quá trình người học nhận thức các khái niệm và quy tắc của ngôn ngữ, vận dụng nó vào giải quyết các nhiệm vụ cụ thể của giao tiếp cũng chính là quá trình người học tiến hành các thao tác tư duy theo một sự định hướng về phương pháp và loại hình tư duy nào đó, hình thành nên không chỉ các kĩ năng ngôn ngữ mà còn cả các kĩ năng và phẩm chất tư duy. Bản chất xã hội này của ngôn ngữ và mối quan hệ biện chứng hữu cơ giữa hai quá trình hoạt động tư duy và hoạt động ngôn ngữ một mặt buộc chúng ta dù muốn hay không muốn cũng luôn phải gắn việc rèn luyện ngôn ngữ với rèn luyện tư duy song mặt khác cũng lại buộc chúng ta phải suy nghĩ làm thế nào để quá trình kết hợp này được thực hiện một cách có ý thức, được diễn ra theo một kế hoạch có tính toán dựa trên những cơ sở khoa học vững chắc, đảm bảo cho hoạt động dạy – học tiếng đạt được hiệu quả cao nhất.

N ăng lực tư duy của con người được thể hiện ở nhiều phương diện. Tư duy nhanh, chậm, chính xác, không chính xác, bền bỉ, kém bền bỉ, mạch lạc chặt chẽ, kém mạch lạc chặt chẽ,… đó là phẩm chất của tư duy. Thiên về tư duy hình tượng hay thiên về tư duy logique, đó là khuynh hướng của tư duy. Phân tích, tổng hợp, cụ thể hoá, trừu tượng hoá, so sánh, đối chiếu, quy nạp, diễn dịch,… đó là thao tác của tư duy. Biện chứng, khách quan hay chủ quan, máy móc, đó là phương pháp tư duy.

C hính vì thế, nguyên tắc rèn luyện ngôn ngữ gắn với rèn luyện tư duy đòi hỏi phải cụ thể hoá thành các yêu cầu sau đây:

D ạy học tiếng phải gắn liền với rèn luyện phương pháp tư duy.

D ạy học tiếng phải gắn liền với rèn luyện các thao tác tư duy.

D ạy học tiếng phải gắn liền với bồi dưỡng phẩm chất tư duy.

D ạy học tiếng phải gắn liền với bồi dưỡng cả hai loại tư duy, tư duy hình tượng và tư duy logique.

Đ ể thực hiện tốt được 4 yêu cầu trên, chương trình dạy-học tiếng Việt phải tuyển chọn được một hệ thống văn bản ngữ liệu có khả năng đáp ứng cao các yêu cầu rèn luyện, đồng thời cũng phải chuẩn bị tốt hệ thống các câu hỏi tìm hiểu bao gồm đầy đủ các loại: câu hỏi định hướng, câu hỏi phân tích, câu hỏi so sánh đối chiếu, câu hỏi tổng hợp, câu hỏi khái quát hoá… chuẩn bị tốt hệ thống bài tập rèn luyện kĩ năng và bài tập rèn luyện lời nói liên kết. Chính trên cơ sở này chúng ta mới có điều kiện giúp cho học sinh không chỉ thấy được giá trị của các đơn vị ngôn ngữ trong hệ thống tiếng Việt, thông hiểu được ý nghĩa của chúng, gắn chúng với nội dung hiện thực được phản ánh mà còn biết vận dụng các phương pháp, các thao tác tư duy để đưa các đơn vị này vào hoạt động trong những điều kiện giao tiếp cụ thể, thực hiện những nhiệm vụ giao tiếp cụ thể một cách hữu hiệu.

Hoạt động định hướng

Tại sao trong dạy học tiếng Việt nói riêng, dạy học ngôn ngữ nói chung lại cần phải hướng vào họat động giao tiếp? Theo anh (chị), cơ sở đề xuất quan điểm này là gì?

– Ngôn ngữ có chức năng giao tiếp, bởi vậy, chỉ trong giao tiếp, ngôn ngữ mới bộc lộ hết và bộc lộ một cách rõ ràng nhất đặc điểm của mình.

– Học ngôn ngữ là để giao tiếp tốt hơn, cho nên không thể không đưa học sinh vào những tình huống cụ thể để học tập, để rèn luyện.

– Gắn với hoạt động giao tiếp, việc dạy tiếng trong nhà trường mới trở nên sinh động, hấp dẫn,mới giúp học sinh vượt qua được những lực cản tâm lí khi các em học tiếng mẹ đẻ.

Cơ sở đề xuất quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng Việt:

– Xuất phát từ chức năng của ngôn ngữ: là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của xã hội loài người. Con người có thể sử dụng nhiều phuơng tiện giao tiếp khác nhau, nhưng không có phương tiện nào đem lại hiệu quả cao như ngôn ngữ. Ngôn ngữ không phải là phương tiện giao tiếp duy nhất, nhưng là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người.

– Xuất phát từ mục đích của việc dạy học tiếng Việt trong nhà trường. Dạy tiếng Việt trong nhà trường có hai mục đích cơ bản:

+ Truyền thụ những kiến thức khoa học về tiếng Việt, cụ thể là những khái niệm, công thức, quy tắc, cùng những hiểu biết khác nữa về một bộ môn khoa học, đó là Việt ngữ học.

+ Rèn những năng lực ngôn ngữ tương ứng với những lí thuyết tiếp thu được trong bộ môn Việt ngữ học vào thực tế hoạt động giao tiếp.

N gôn ngữ là một hệ thống hoạt động chức năng, tách khỏi hoạt động chức năng nó sẽ không còn sức sống. Môi trường hành chức của ngôn ngữ, của tiếng Việt chính là giao tiếp. Cho nên, mọi quy luật cấu trúc và mọi quy tắc hoạt động của hệ thống ngôn ngữ, hệ thống tiếng Việt chỉ được thể hiện trong lời nói sinh động và rút ra từ lời nói sinh động. Muốn hình thành kĩ năng kĩ xảo ngôn ngữ, kĩ năng kĩ xảo tiếng Việt cho học sinh thì trước hết, phải tạo được môi trường giao tiếp cho học sinh trực tiếp tham gia lĩnh hội hoặc sáng tạo lời nói. Nguyên tắc hướng vào hoạt động giao tiếp chi phối toàn bộ quy trình tổ chức dạy – học tiếng Việt, từ khâu xây dựng chương trình, biên soạn giáo khoa đến khâu thiết kế thi công bài học của giáo viên.

M ột chương trình và giáo khoa được xác lập, được biên soạn theo nguyên tắc hướng vào hoạt động giao tiếp trước hết phải quán triệt tư tưởng giao tiếp vừa là điểm xuất phát lại vừa là đích hướng tới, vừa là nội dung lại vừa là định hướng phương pháp và môi trường tổ chức dạy học của tất cả các đơn vị kiến thức. Tinh thần này sẽ được cụ thể hoá trong một số phương diện như sau:

Tất cả các khái niệm, các quy tắc và các kĩ năng ngôn ngữ nói chung, tiếng Việt nói riêng được xác lập trong chương trình phải được định hướng giao tiếp rõ ràng: không nhằm mục đích cung cấp những tri thức hàn lâm về ngôn ngữ học nói chung, Việt ngữ học nói riêng mà nhằm vào mục đích rèn luyện các kĩ năng sản sinh, lĩnh hội lời nói, phục vụ giao tiếp ( chẳng hạn rèn luyện các kĩ năng nghe-nói-đọc-viết với 5 kiểu loại văn bản ở THCS, cáckĩ năng đọc- hiểu và làm văn cũng với 5 kiểu loại văn bản ở PTTH ).

C ác văn bản ngữ liệu, hệ thống câu hỏi tìm hiểu, các bài tập thực hành cũng phải được định hướng giao tiếp rõ ràng: định hướng về nội dung, định hướng về thao tác, định hướng về kĩ năng. Nhìn chung, nội dung các ngữ liệu phải đảm bảo tính sinh động, tính thực tế của giao tiếp, các câu hỏi tìm hiểu, các bài tập thực hành phải gợi mở được thao tác thực hiện, gắn liền với các kĩ năng lĩnh hội, sản sinh lời nói cần được rèn luyện.

Về mặt phương pháp và thủ pháp dạy – học, phương hướng chung là phải đặt các đơn vị ngôn ngữ được đưa ra giảng dạy học tập trong hệ thống hành chức của nó ( Thí dụ: đặt từ trong câu, đặt câu trong đoạn, đoạn trong văn bản, xác định rõ các nhân tố chi phối… – giải thích rõ tại sao phải như vậy). Muốn vậy phải tạo ra được những tình huống giao tiếp khác nhau và tổ chức cho học sinh đưa các đơn vị, các khái niệm, các quy tắc ngôn ngữ vào thực hành lĩnh hội hoặc sản sinh lời nói.

Hết sức hạn chế diễn giảng, thuyết minh giải thích. Cần coi phát vấn đàm thoại và thực hành vận dụng là hình thức chủ đạo trong dạy – học tiếng.

Hoạt động vận dụng

Từ những tri thức lí luận về nguyên tắc dạy học tiếng hướng vào hoạt động giao tiếp ở trên, anh (chị) hãy trình bày một hướng dạy học tiếng Việt đảm bảo nguyên tắc này.

Suy nghĩ và trình bày ý kiến

Anh (chị) hiểu thế nào là nguyên tắc chú ý đến trình độ tiếng Việt vốn có của học sinh? Tại sao phải chú ý đến nguyên tắc này khi dạy học tiếng mẹ đẻ?

K hông nên quan niệm giản đơn về trình độ tiếng Việt của học sinh bởi không phải chỉ những kiến thức được học trong nhà trường mới làm nên vốn tiếng Việt của các em. Vốn tiếng Việt của học sinh được hình thành từ rất nhiều nguồn, gắn liền với môi trường sống và giao tiếp của các em. Cũng chính vì vậy, nó vừa không đồng đều ở mọi đối tượng học sinh lại vừa phức tạp ngay trong tự thân, không chỉ có những yếu tố tích cực mà còn có cả những yếu tố tiêu cực, không chỉ có những yếu tố được hình thành, được sử dụng một cách có ý thức mà còn có cả những yếu tố được hình thành, được sử dụng một cách vô thức…

C hú ý tới trình độ tiếng Việt vốn có của học sinh chính là phải điều tra, phân loại, nắm vững được đặc điểm vốn tiếng Việt của các em để trên cơ sở đó đề ra được những biện pháp thích hợp nhằm ý thức hóa, tích cực hóa, bổ sung, hoàn thiện vốn kinh nghiệm tiếng Việt đó. Để ý thức hóa, tích cực hóa, bổ sung, hoàn thiện cần phải:

+ P hát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong giờ học bằng các hoạt động tìm ngữ liệu, quan sát, phân tích, khái quát tổng hợp rút ra các định nghĩa về khái niệm và quy tắc.

+ N ắm vững khả năng trình độ, vốn kinh nghiệm ngôn ngữ của học sinh ở từng độ tuổi, cấp học, từng loại đối tượng để có sự điều chỉnh nội dung, phương pháp cho thích hợp.

+ H ệ thống hóa vốn kinh nghiệm tiếng Việt của từng đối tượng học sinh để có thể phát huy những kinh nghiệm tích cực, hạn chế và loại bó dần những kinh nghiệm tiêu cực thông qua những uốn nắn kịp thời.

Hoạt động tự kiểm tra

Điền vào chỗ bỏ trống các từ thích hợp:

Nghe, nói, đọc, viết là những dạng hoạt động khác nhau của ngôn ngữ và đều có tính phổ biến và quan trọng như nhau. Trong 4 loại hoạt động này, xét về đặc tính vật chất của phương tiện giao tiếp thì: nghe, nói là những hoạt động bằng … (1), đọc, viết là những hoạt động bằng … (2); còn xét về mục đích của giao tiếp thì: nói, viết là những hoạt động … (3) lời nói, nghe, đọc là những họat động … (4) lời nói.

Bởi vậy, khi dạy học cần chú ý tới cả 4 dạng hoạt động này.

(1) âm thanh, (2) chữ viết, (3) tạo lập hoặc sản sinh, (4) tiếp nhận hoặc sản sinh

D ạng nói và dạng viết là hai dạng tồn tại khác nhau của lời nói, mang những đặc điểm khác nhau. Muốn học sinh nắm được cả hai dạng lời nói này, cần phải so sánh, đối chiếu và chỉ ra sự khác biệt giữa chúng với nhau, lưu ý học sinh không nên “nói như viết” hoặc “viết như nói “.

Đ ối với học sinh bậc tiểu học thì dạng viết là giai đoạn thứ hai của việc chiếm lĩnh ngôn ngữ và sẽ không thể chiếm lĩnh nếu các em không nắm được dạng nói. Đây chính là cơ sở để vạch ra quy trình dạy tập làm văn ở bậc tiểu học: Tìm hiểu bài-Tập làm văn miệng-Tập làm văn viết. Lên các lớp thuộc cấp trên, không nhất thiết dạng nói phải đi trước dạng viết nhưng nhất thiết không được bỏ qua dạng nói và phải luôn luôn nhận thức đúng về mối quan hệ hữu cơ của việc rèn luyện cả hai dạng lời nói này.

6 Nguyên Tắc Vàng Trong Dạy Học Tiếng Đức Cho Trẻ Em.

1. Chơi nhiều hơn dạy.

Chính xác phải nói đây là mộtphương pháp học tiếng Đức “Dạy mà không dạy”. Trong đó, giáo viên khi lên lớp không dạy theo bất kỳ một giáo trình nhất định nào cả và tư tưởng chủ đạo của việc này không phải là dạy mà chính là tạo sân chơi đa dạng, nhiều màu sắc bằng tiếng Đức cho trẻ em. Từ đó, sẽ bắt đầu hướng dẫn các em tự làm chủ sân chơi của mình và từng bước tự bổ sung các hoạt động khác nhau.

4. Nói nhiều hơn nghe-viết.

Việc bám theo một giáo trình nào đó để học sẽ hạn chế năng lực sáng tạo, cũng như cách thức học và giảng dạy của cả thầy lẫn trò. Hơn nữa, để có thể đa dạng hóa các hoạt động trong lớp, thì việc tăng cường học cụ là điều đương nhiên và cần thiết. Dạy học tiếng Đức cho trẻ em cần chú ý những học cụ bình thường dễ kiếm: như ca hát, nhảy múa, diễn kịch… để làm tăng hoạt động của các em, nhất là cần khuyến khích trẻ tìm kiếm thêm các học cụ làm phong phú hóa quá trình học tập đồng thời góp phần phát triển tư duy của trẻ, khuyến khích trẻ nghe nói, giao tiếp Tiếng Đức nhiều.

Việc sử dụng các loại thiết bị công nghệ cao hiện nay như máy nghe nhạc, điện thoại, truyền hình hay máy tính….và các phần mềm kèm theo đó, sẽ giúp đẩy nhanh việc nắm bắt ngôn ngữ. Nhưng đây không phải là cái duy nhất làm tăng hiệu quả cho việc học tiếng của trẻ, sử dụng không đúng cách còn có thể gây ảnh hưởng đến việc học tập của trẻ.

Học tiếng Đức cần có một phương pháp học rõ ràng 5. Bắt chước hơn ngữ pháp.

Thực tế cho thấy rằng, kỹ năng nói dễ học và dễ bắt chước nhất trong các kỹ năng của việc học ngoại ngữ. Và khi nói được, thì trẻ đã từng bước xây dựng được tâm lý vững chắc và tự tin trong sử dụng tiếng Đức cảu mình. Kỹ năng này vốn là điểm yếu cơ bản trong giao tiếp Tiếng Đức đối với nhiều thế hệ học tiếng Đức trước đó.

Ở cái lứa tuổi này thì bắt chước là không thể thiếu được đối với trẻ em, đặc biệt trong việc dạy học tiếng Đức cho trẻ em. Bắt chước giúp quá cho trình học tập của trẻ đi nhanh hơn, trong đó bao gồm cả việc sử dụng các mẫu câu căn bản. Ngữ pháp được hình thành từng bước trong quá trình học tập nhưng hãy tránh không để cho ngữ pháp trở thành yếu tố gây trở ngại trong bắt chước. Tuy nhiên, bắt chước gồm cả xấu lẫn tốt. Tuy nhiên, việc xác định tốt hay xấu là tùy thuộc vào việc giáo viên và phụ huynh chủ động hướng dẫn như thế nào để các em tự xác định và hành động phù hợp. Việc bắt chước sẽ giúp ích rất nhiều trong việc phát triển kỹ năng phát âm tiếng Đức của trẻ, các em sẽ có thể phát âm Tiếng Đức với mức độ chuẩn xác gần với người bản xứ.

Thông thường, ở nước ta sau mỗi buổi học không riêng gì môn ngoại ngữ, tất cả các bậc phụ huynh thường hỏi là “hôm nay con học được bao nhiêu điểm” hơn là câu hỏi “hôm nay học có vui không, có học gì mới không” như trong các hệ thống giáo dục khác. Chính vì tư tưởng này, trẻ phải chú ý vào việc lấy được điểm cao và vui chơi lại là thứ yếu. Từ đó, qua từng bậc học hình thành nên thói quen học vì điểm và với mọi cách phải đạt điểm số cao chứ không chú tâm đến chất kiến thức đã học.

Bạn đang xem bài viết Nguyên Tắc Dạy Học Là Gì? trên website Lienminhchienthan.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!